Develop by: TopOnSeek Website: https://www.toponseek.com

Trang chủNgân hàngPhòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

author-image

Published 01/04/2023

0/5 - (0 bình chọn)
image-cover
icon-share-facebook
icon-share-twitter
icon-share-reddit
icon-share-linkedin
icon-share-pinterest

1. Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là gì

Hiện các ngân hàng thương mại đang gặp phải rất nhiều rủi ro trong hoạt động cho vay mà biểu hiện rõ rệt nhất là tình trạng nợ quá hạn có xu hướng gia tăng. Những khoản rủi ro này đang đe dọa tới sự phát triển bền vững của các Ngân hàng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của một ngân hàng thể hiện qua một số chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ đã xóa, đã xử lý trên tổng dư nợ, chi phí dự phòng tín dụng hay số dư dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ…

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung và của kinh tế thành phố nói riêng. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương mại.

Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng. Vì vậy các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững.

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là các giải pháp nhằm ngăn chặn đến mức tối đa việc phát sinh những rủi ro có thể xảy ra như việc khách hàng nhận vốn vay mà không thực hiện hoặc thực hiện nhưng không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi ngân hàng. 

2. Nội dung phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng

2.1. Xây dựng chiến lược phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng

Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng đều cho rằng: Đối với các ngân hàng thương mại, trong hoạt động kinh doanh luôn phải chú ý đến hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Phòng ngừa và hạn chế rủi ro là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành ngân hàng thương mại.

Theo Uỷ ban Basel thì phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là việc thiết lập cơ chế nhận biết, đo lường, quản lý và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng một cách đầy đủ, nhằm tối đa hoá lợi nhuận được điều chỉnh theo yếu tố rủi ro bằng cách duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong phạm vi chấp nhận được. 

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là một trong những hoạt động chủ đạo của ngân hàng thương mại. Quản lý rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.

- Xây dựng chiến lược phòng ngừa và hạn chế rủi ro: Ngân hàng cần xác định được tầm nhìn, mục tiêu, sứ mệnh của ngân hàng để từ đó đưa ra “khẩu vị rủi ro” - mức độ rủi ro có thể chấp nhận được - để từ đó hoạch định chiến lược quản trị rủi ro phù hợp. Chiến lược quản trị rủi ro phải trả lời được giải quyết được các vấn đề quan trọng: Thái độ của ngân hàng đối với rủi ro tín dụng; Mức độ chấp nhận rủi ro tín dụng của ngân hàng; Năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng.

- Xây dựng chính sách phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng: Để thực thi Chiến lược quản trị rủi ro, trong từng thời kỳ, Ban điều hành đưa ra các chính sách phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là cơ sở để hình thành nên quy trình tín dụng với những hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các bước cụ thể trong quá trình cấp tín dụng. 

+ Mức ủy quyền phán quyết là hạn mức tín dụng tối đa mà hội sở chính giao cho chi nhánh được toàn quyền quyết định.

+ Giới hạn rủi ro là mức rủi ro tối đa mà ngân hàng có thể chịu đựng được để đảm bảo đạt được mức lợi nhuận tương ứng.

+ Quản trị danh mục cho vay.

Ngân hàng phải thường xuyên phân tích và theo dõi danh mục tín dụng đặc biệt là các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Trên cơ sở danh mục cho vay, ngân hàng tiến hành phân loại nợ để phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ trong hạn, nợ cần đặc biệt lưu ý, nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần hết sức lưu ý đến các khoản nợ đặc biệt chú ý vì khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, các khoản này dễ bị chuyển thành nợ xấu. Ngân hàng đưa ra các biện pháp quản trị các khoản nợ trên để đảm bảo chất lượng tín dụng cho ngân hàng.

Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng tập trung gồm các báo cáo định kỳ và đặc biệt. Báo cáo định kỳ có thể bao gồm các báo cáo liên quan đến các nội dung sau: Nhóm khách hàng có dư nợ tín dụng lớn nhất, các khoản dư nợ lớn nhất; phân tích danh mục tín dụng, các trường hợp ngoại lệ (ví dụ vượt hạn mức); các khoản nợ xấu và khó đòi; các dấu hiệu cảnh báo sớm, dự phòng cho từng khoản dư nợ đơn lẻ, lợi nhuận cho từng khách hàng và sản phẩm, nhật ký theo dõi các khoản vay.

+ Rà soát chính sách phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng theo từng thời kỳ.

2.2. Xây dựng mô hình phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng

Các nhà kinh tế, các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm các mô hình định lượng và mô hình định tính. Các mô hình này không loại trừ lẫn nhau nên các ngân hàng có thể sử dụng nhiều mô hình để phân tích, đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng.

2.2.1. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung

Là mô hình trong đó quyền ra quyết định cấp tín dụng tập trung cho các cá nhân phê duyệt tín dụng độc lập hoặc một nhóm người (hội đồng tín dụng, ban tín dụng…). Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng. 

- Tại Hội sở chính: Tách chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng quản lý tín dụng trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng.

- Tại chi nhánh: tách bạch các bộ phận, chức năng bán hàng (tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc khách hàng, khởi tạo tín dụng), chức năng phân tích tín dụng (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá khách hàng…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi…)

Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển, chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng.

Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập thông tin bổ sung qua các kênh lưu trữ ngân hàng, CIC, tìm hiểu các phương tiện thông tin đại chúng… Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả lên người có thẩm quyền để xem xét quyết định phê duyệt tín dụng.

Ưu điểm:

- Dễ điều hành vốn.

- Dễ điều chỉnh cơ cấu theo mục tiêu định sẵn.

- Quản trị rủi ro tín dụng một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài.

- Thiết lập và duy trì môi trường phê duyệt tín dụng đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh, nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro.

- Hỗ trợ xây dựng chính sách quản trị rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống.

Nhược điểm:

- Ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu có một khối lượng lớn khách hàng đề nghị cấp tín dụng cùng thời điểm.

- Việc ra quyết định tín dụng tập trung vào một cá nhân hay một nhóm người có thể dẫn đến tiêu cực nếu có móc nối và không kiểm soát chặt chẽ quy trình.

- Không phân định được rõ ràng trách nhiệm của cá nhân tham gia thẩm định và phê duyệt.

- Đội ngũ cán bộ phê duyệt tín dụng phải có kiến thức cần thiết, gắn kết lý thuyết với thực tiễn, có kinh nghiệm tín dụng lâu năm.

- Đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, thời gian và nguồn nhân lực

Mô hình phê duyệt tín dụng tập trung được đưa ra để kiểm soát hoạt động thẩm định và phê duyệt tín dụng một cách chặt chẽ hơn. Mô hình này hạn chế thẩm quyền phê duyệt tín dụng đối với đơn vị kinh doanh - đơn vị tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Mô hình này đã phần nào giúp kiểm soát được hoạt động cấp tín dụng, giám sát được các khoản vay có hiệu quả, đồng thời giải phóng thời gian cho đơn vị kinh doanh để tập trung bán hàng, tìm kiếm khách hàng, đa dạng trong các sản phẩm bán và gia tăng nhanh doanh số.

2.2.2. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán

Là mô hình phê duyệt tín dụng trong đó từng cán bộ lãnh đạo, ban lãnh đạo các đơn vị kinh doanh được quy định các mức phán quyết tín dụng cụ thể. Khi giá trị cấp tín dụng vượt thẩm quyền, các đơn vị kinh doanh phải trình hồ sơ lên các cấp cao hơn phê duyệt. Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa 3 chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Các phòng ban tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản cấp tín dụng. Mức phán quyết là mức tín dụng tối đa mà từng cán bộ lãnh đạo, ban lãnh đạo các đơn vị kinh doanh được quyền quyết định cho vay. Ở Việt Nam cách này phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng về nguyên tắc phân định trách nhiệm ở các khâu trong quy trình.

Ưu điểm:

- Phát huy tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cán bộ nhân viên, giảm sức ép lên nhà quản trị, giảm thời gian lưu trữ hồ sơ, tạo cơ sở kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng.

- Gọn nhẹ, cơ cấu tổ chức đơn giản.

- Chủ động và tiết kiệm thời gian, bán hàng và chăm sóc khách hàng hiệu quả.

Nhược điểm:

- Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu chuyên sâu.

- Hoạt động tín dụng được quản lý từ xa, khó kiểm soát, sâu sát kỹ càng quy trình cấp tín dụng.

- Không đảm bảo tính chính xác và khách quan. Vì vậy nhiều ngân hàng đã quy định trong những trường hợp vượt mức hoặc có mâu thuẫn trong kết quả ra quyết định tín dụng thì phải đưa ra Hội đồng tín dụng phán xét.

- Trong mô hình này, nhà quản trị phải xác định rõ trình độ và kinh nghiệm của các bộ phận lãnh đạo đơn vị trong quy trình cấp tín dụng. Từ đó quy định số tiền tối đa mà họ có quyền ra quyết định tín dụng. Mức phán quyết tăng lên theo trình độ và kinh nghiệm của nhân viên, cũng như quy mô của đơn vị.

3. Tổ chức thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng

3.1. Nhận diện rủi ro tín dụng

3.1.1. Dấu hiệu từ phía khách hàng

Dấu hiệu từ các báo cáo tài chính:

- Bảng tổng kết tài sản: 

+ Ngân hàng không nhận được báo cáo tài chính từ khách hàng kịp thời.

+ Những thay đổi rõ rệt về cơ cấu tài sản kinh doanh. Ví dụ như trong trường hợp tỷ trọng tài sản tăng nhanh, nguyên nhân có thể là do đồng thời hàng tồn kho, tài sản cố định tăng nhanh trong khi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của doanh nghiệp không yêu cầu như vậy. Hay ngược lại trong trường hợp này đó là tỷ trọng giảm thì nguyên nhân có thể là do doanh nghiệp rút bớt tài sản dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính do hoạt động này không sinh lời như dự tính. 

+ Doanh nghiệp tập trung vào nhiều tài sản vô hình. 

+ Thay đổi tài khoản ngân hàng.

+ Thời gian thu hồi công nợ trung bình gia tăng nhanh.

+ Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn nợ ngân hàng hoặc khách hàng. 

+ Chi phí chờ kết chuyển gia tăng đột biến. 

- Báo cáo về thu nhập và chi phí:

+ Doanh số bán hàng giảm. 

+ Doanh số bán hàng gia tăng một cách nhanh chóng.

+ Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng. 

+ Doanh thu bán hàng tăng nhưng lợi nhuận lại giảm nhiều. 

+ Các khoản lỗ từ nợ quá hạn tăng lớn.

+ Xuất hiện lỗ từ hoạt động kinh doanh.

+ Lưu chuyển tiền ròng từ hoạt động kinh doanh âm và có kết quả âm từ 2 đến 3 kỳ kinh doanh. 

- Dấu hiệu từ hoạt động kinh doanh: 

+ Thay đổi về phạm vi kinh doanh (ví dụ ngành hàng kinh doanh truyền thống bị thu hẹp trong khi mở rộng các hoạt động ở các lĩnh vực mà doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm).

+ DN khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ người bán o Sử dụng nguồn nhân lực kém hiệu quả.

+ Mất mát những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp.

+ Xuất hiện những việc mua hàng tồn kho mang tính đầu cơ nằm ngoài nguyên tắc mua hàng thông thường của doanh nghiệp. 

+ Hàng tồn kho có những dấu hiệu kém chất lượng, lưu hàng tồn kho với số lượng lớn hoặc cơ cấu hàng tồn kho không phù hợp.

+ Khách hàng trả lại hàng hóa do chất lượng không đảm bảo 

3.1.2. Dấu hiệu từ giao dịch ngân hàng

+ Số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng giảm.

+ Thời hạn của đơn xin vay thay đổi theo mùa vụ đáng kể.

+ Xuất hiện những chủ nợ khác đặc biệt là những chủ nợ chi nhận tài sản đảm bảo. Khó khăn khi thanh toán với ngân hàng đặc biệt là phải gia hạn nợ.

+ Thanh toán không kịp thời các khoản nợ đến hạn, phải điều chỉnh kỳ hạn nợ liên tục.

3.1.3. Dấu hiệu liên quan đến quản trị doanh nghiệp

+ Thay đổi thái độ đối với ngân hàng, cán bộ ngân hàng, đặc biệt là có cảm giác thiếu tính hợp tác.

+ Không có khả năng thực hiện kế hoạch.

+ Báo cáo tài chính yếu kém.

+ Mạo hiểm khi mua bán, khi thực hiện công việc kinh doanh mới.

+ Nhân vật chủ chốt của doanh nghiệp ốm dài hạn hoặc chết.

+ Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường họăc các điều kiện kinh tế.

+ Có dấu hiệu nợ lương công nhân viên.

+ Trình độ quản lý của doanh nghiệp kém.

+ Độ tín nhiệm của doanh nghiệp thấp

+ Sắp có sự thay đổi về hình thức sở hữu doanh nghiệp. 

3.2. Các dấu hiệu liên quan đến công tác quản lý tín dụng 

- Quy trình cho vay không được tuân thủ theo đúng quy định của ngân hàng.

- Cán bộ tín dụng có mối quan hệ với khách hàng.

- Lãnh đạo ngân hàng quá độc đoán trong khi xét duyệt khoản vay.

- Không thể kiểm tra tài sản kinh doanh của người vay.

- Giải ngân trước khi hoàn thiện hồ sơ cho vay.

- Cho vay thêm nhưng lại không dùng tài sản đảm bảo hợp lý.

- Không phân tích, phân tích không đúng khả năng trả nợ của người vay.

- Cán bộ cho vay không kiểm tra tình trạng khoản vay thường xuyên. 

- Vốn vay không được sử dụng đúng mục đích.

- Kế hoạch trả nợ không rõ ràng, không được ký kết bằng văn bản. 

- Dấu hiệu từ khoản vay:

+ Hồ sơ thiếu sự chặt chẽ, thiếu tính pháp lý, độ tin cậy của những thông tin trong bộ hồ sơ bị nghi ngờ.

+ Giá trị thực tế của tài sản đảm bảo thấp.

+ Nguồn trả nợ không đúng với kế hoạch vay vốn 

- Các dấu hiệu khác:

+ Cơ chế chính sách thay đổi làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của khách hàng vay.

+ Giá cả thị trường thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của sản phẩm mà khoản vay đó đã đầu tư.

+ Tỷ giá thay đổi, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng.

3.3. Dấu hiệu liên quan đến tuân thủ các quy định pháp lý về cho vay

Quy định pháp lý về cho vay là các quy định điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định này có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động cho vay của ngân hàng vì nó quy định tính chất quy mô phạm vi giao dịch trong hoạt động cho vay của ngân hàng, nó có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng.

- Quy định về nguyên tắc vay vốn và điều kiện vay vốn

- Quy định về lãi suất

- Quy định về giới hạn cho vay

- Quy định về hạn chế cho vay

- Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay

- Quy định về phân loại nợ và trích lập quỹ dự phòng rủi ro.

3.4. Dấu hiệu liên quan đến kết cấu dư nợ tín dụng 

Dựa vào kết cấu dư nợ tín dụng có thể xác định mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng cao hay thấp. Nếu kết cấu dư nợ quá tập trung vào một số doanh nghiệp hoặc thành phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định sẽ có mức độ rủi ro lớn do tập trung vốn nhiều. Dựa vào kết cấu dư nợ tín dụng (theo thành phần, đối tượng, ngành nghề, thời hạn) kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan đến khách hàng, thị trường của ngân hàng và của khách hàng thì có thể đánh giá được mức độ rủi ro tín dụng là cao hay thấp.

3.5. Dấu hiệu nhận biết bằng các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng

Nếu các ngân hàng chỉ dựa duy nhất vào phương pháp truyền thống để đánh giá rủi ro tín dụng thì vừa mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan. Vì vậy, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hóa rủi ro tín dụng của người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp truyền thống ở chỗ: nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan.

Do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm của người vay để lượng hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau.

Để sử dụng các mô hình này, các nhà quản lý phải xác định được các tiêu chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể: Mô hình xếp hạng của Moody's, mô hình điểm số A, mô hình của Taffler, hệ thống cho điểm tín dụng, hệ thống xếp hạng nội bộ, mô hình tính điểm số…

4. Phân tích, đánh giá, đo lường rủi ro tín dụng

4.1. Phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng

Phân tích đánh giá khách hàng nhằm phát hiện các nguy cơ rủi ro trong từng khách hàng, từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng được thực hiện từ khi bắt đầu tiếp xúc khách hàng, trong quá trình cho vay và sau khi cho vay. Để có thể phân tích đánh giá khách hàng cần thu thập thông tin về khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay. Hiện nay, việc khai thác thông tin về khách hàng thường dựa vào báo cáo tài chính trong những năm gần đây của khách hàng. Bên cạnh việc thu thập thông tin từ khách hàng, cần thu thập thông tin về đối tác của khách hàng, từ những ngân hàng mà ngân hàng có quan hệ từ cơ quan quản trị khách hàng, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro…phân tích khách hàng theo các chỉ tiêu định tính và định lượng để có những kết luận chính xác về tình trạng của khách hàng.

4.1.1. Về các chỉ tiêu định tính

Có thể sử dụng mô hình 6C để phân tích rủi ro từ phía khách hàng: Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiện chí và khả thanh toán toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh-6C” của khách hàng bao gồm: 

(1) Tư cách người vay (Character): CBTD phải chắc chắn rằng người vay có mục đích tín dụng rõ ràng, có thiện chí trả nợ khi đến hạn.

(2) Năng lực của người vay (Capacity): Người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp. 

(3) Thu nhập của người vay (Cash): Xác định nguồn trả nợ của khách hàng vay. 

(4) Bảo đảm tiền vay (Collateral): Là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng. 

(5) Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ. 

(6) Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng. Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của CBTD. 

4.1.2. Về các chỉ tiêu định lượng

Dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp và các nguồn thông tin khác, cán bộ tín dụng tiến hành các bước công việc sau:

- Thứ nhất, thu nhập thông tin và phân tích tình hình tài chính khách hàng dựa trên các nhóm chỉ tiêu như: Nhóm chỉ tiêu về thu nhập, lợi nhuận, thanh khoản, cân nợ và các chỉ tiêu hoạt động).

+ Nhóm chỉ tiêu về thu nhập: Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm các khoản thu có thể thu được từ hoạt động của doanh nghiệp, để trang trải các chi phí và tạo lợi nhuận của doanh nghiệp.

+ Các nhóm chỉ tiêu cơ bản của lợi nhuận bao gồm các chỉ tiêu: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE); Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Có (ROA); Chỉ tiêu lợi nhuận trên giá trị rủi ro Var (RAPM). 

+ Nhóm chỉ tiêu thanh khoản bao gồm các chỉ tiêu: Khả năng thanh toán hiện hành; Khả năng thanh toán nhanh; Khả năng thanh toán tức thời.

+ Nhóm chỉ tiêu cân nợ bao gồm các chỉ tiêu như: Tổng nợ phải trả trên Tổng tài sản; Nợ dài hạn trên Vốn chủ sở hữu

+ Nhóm chỉ tiêu hoạt động: Vòng quay vốn lưu động; Vòng quay hàng tồn kho; Vòng quay các khoản phải thu; Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.

- Thứ hai, xử lý thông tin: Sau khi thu thập thông tin, phải sàng lọc nguồn thông tin đã thu thập để phân tích, đánh giá khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng trên cơ sở đó, xác định nguy cơ rủi ro đối với khách hàng để ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay, điều kiện cho vay nhằm hạn chế rủi ro.

- Thứ ba, xác định các nguy cơ rủi ro của khách hàng: Có rất nhiều yếu tố có thể gây ra rủi ro đối với một doanh nghiệp. Tuy nhiên một doanh nghiệp thường không phải gặp tất cả các nguy cơ rủi ro mà chỉ có một số nguy cơ rủi ro chính. Các nguy cơ rủi ro chính được liệt kê tại bảng 

BẢNG 0.b

Bảng 1.1: Nguy cơ rủi ro đối với khách hàng

STTRủi roCác biểu hiệnPhương pháp phân tích
1Rủi ro hoạt động- Bộ máy quản trị không kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp (từ khâu tổ chức sản xuất, gián đoạn kinh doanh, hoạt động bán hàng…).- Có nhiều sai sót trong quá trình quản trị, sản xuất, kinh doanh, bán hàng... gây thiệt hại cho doanh nghiệp.- Phân tích định tính:+ Năng lực điều hành.+ Đạo đức nghề nghiệp.+ Hệ thống văn bản quản lý.
2Rủi ro tài chính- Quản trị về vốn vay không hợp lý dẫn đến khi lãi vay tăng nhanh, ảnh hưởng đến kế hoạch lợi nhuận.- Rủi ro về tỷ giá dẫn đến ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp.Phân tích định lượng:- Hệ số đòn bẩy.- Hệ số lợi nhuận.- Cơ cấu nợ.- HĐKD ngoại tệ..
3Rủi ro thanhkhoản- Dòng tiền không đảm bảo khả năng thanh toán tại một thời điểm.Phân tích định lượng về các hệ số thanh toán, quản lý dòng tiền
4Rủi ro thị trường- Mức độ cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm, về mẫu mã, về giá cả, về các hình thức quảng cáo, khuyến mại.- Vị thế của doanh nghiệp trong ngành, định vị thương hiệu của doanh nghiệp.- Vị thế của ngành trong nền kinh tế.Phân tích định tính và định lượng:- Phân tích định tính:+ Năng lực cạnh tranh của ngành, của DN.+ Điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp.+ Vị thế, thương hiệu của doanh nghiệp.- Phân tích định lượng:+ Tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận so với các đối thủ cạnh tranh.+ Thị phần trong ngành.
5Rủi ro chính sách- Sự thay đổi của chính sách quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách vĩ mô khác.Phân tích định tính và định lượng:- Phân tích định tính:+ Các tác động của chính sách.+ Dự kiến các ảnh hưởng đối với môi trường KD của DN khi chính sách thay đổi.- Phân tích định lượng:Tác động đến doanh thu, lợi nhuận thông qua sử dụng mô hình tính toán các chỉ số có tính đến tác động của thay đổi chính sách.

Nguồn: Tài liệu tổng hợp của BIDV

4.2. Đo lường rủi ro

Đo lường rủi ro là bước tiếp theo sau khi phát hiện được có nguy cơ rủi ro. Hiện nay, nhiều ngân hàng trên thế giới đã bắt đầu quan tâm đến việc định lượng rủi ro tín dụng một cách bài bản. Đo lường rủi ro tín dụng cần được thực hiện đối với từng khoản vay/khách hàng, đối với danh mục các khoản vay/khách hàng và đối với tổng thể hoạt động của ngân hàng.

- Đối với đo lường rủi ro khoản vay, có thể sử dụng các mô hình: mô hình điểm số Z, mô hình xếp hạng của Moody's…  

- Đối với đo lường rủi ro danh mục: có thể sử dụng mô hình Mô hình xếp hạng tín dụng, mô hình RAROC.

- Đo lường rủi ro tín dụng tổng thể của ngân hàng: Đo lường rủi ro tín dụng tổng thể của ngân hàng còn được đánh giá qua việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng đề cập trong các nội dung trên, bao gồm: Quy mô tín dụng, Cơ cấu tín dụng, Nợ quá hạn, Nợ xấu, Dự phòng rủi ro tín dụng. Khi các yếu tố trên có xu hướng biến động bất thường như: quy mô tín dụng tăng quá nhanh vượt quá khả năng quản trị của ngân hàng, hay là cơ cấu tín dụng tập trung quá mức vào một ngành, một lĩnh vực rủi ro, hoặc là các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu có dấu hiệu vượt qua ngưỡng cho ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro cao.

4.3. Xử lý rủi ro tín dụng

Để ứng phó rủi ro tín dụng, ngân hàng thường sử dụng các công cụ phân tán rủi ro, sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, bảo hiểm rủi ro và xử lý nợ xấu.

4.3.1. Phân tán rủi ro

- Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng: Đây là biện pháp tốt nhất, chủ động nhất trong việc phân tán rủi ro tín dụng. Ngân hàng nên chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư tín dụng, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng ở những địa bàn khác nhau. Điều này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của ngân hàng, khuếch trương thanh thế, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Để thực hiện được điều này các ngân hàng cần vạch ra được một số chiến lược kinh doanh thích hợp trên cơ sở quán triệt một số vấn đề sau:

+ Đầu tư vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau để tránh được sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác trong việc dành giật thị phần trong phạm vi hẹp của một số ngành đang phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính sách của Nhà nước với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất định trong kế hoạch cơ cấu lại một số ngành nghề kinh tế.

+ Đầu tư vào nhiều đối tượng sản xuất kinh doanh, nhiều loại hàng hóa khác nhau, tránh tập trung cho vay sản xuất một số loại sản phẩm, đặc biệt là những loại sản phẩm không thiết yếu mà Nhà nước không khuyến khích hau những sản phẩm đã xuất hiện quá nhiều trên thị trường.

+ Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng, luôn đảm bảo một tỷ lệ cho vay nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng để tránh sự ỷ lại và rủi ro bất ngờ của khách hàng đó. 

+ Cho vay với nhiều loại thời hạn khác nhau đảm bảo sự cân đối giữa số vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro tín dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường.

+ Tạo lập một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay bằng VNĐ và cho vay bằng ngoại tệ đảm bảo đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng tránh được rủi ro tín dụng do sự thay đổi tỷ giá hối đoái.

+ Biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư như đã nói ở trên có ưu điểm là giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng một cách chủ động nhất, tuy nhiên, việc đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng quá mức cũng sẽ có những nhược điểm như là: làm cho việc quản lý trở nên khó khăn, tốn nhiều công sức điều tra, thẩm định, phân tích, đánh giá khách hàng, làm tăng chi phí kiểm tra, giám sát…và làm giảm bớt cơ hội đạt lợi nhuận cao.

- Cho vay đồng tài trợ: 

+ Trên thực tế, có những doanh nghiệp có những nhu cầu vay vốn rất lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng được, đó thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này, các ngân hàng cùng nhau liên kết để thẩm định dự án, cho vay và chia sẻ rủi ro đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên.

+ Đây là hình thức tín dụng chưa thực sự phổ biến đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Một phần do sự phức tạp của hình thức này, một phần còn do vướng mắc trong việc thỏa hiệp giữa các ngân hàng về quyền lợi và trách nhiệm trong khi liên kết. Đây cũng chính là nhược điểm của biện pháp này.

4.3.2. Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh để phòng ngừa và hạn chế rủi ro

Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh thông qua Hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit swap), hợp đồng quyền chọn tín dụng (credit options). Hợp đồng quyền chọn tín dụng là một công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong trị giá tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Hợp đồng quyền chọn tín dụng cũng có thể được sử dụng để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro chi phí vay vốn tăng do chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút.

4.3.3. Bảo hiểm tín dụng

Trong đời sống xã hội, bảo hiểm là một khái niệm thường gặp dùng để chỉ một trong những biện pháp hữu hiệu để phân tán rủi ro. Bảo hiểm tín dụng cũng là một biện pháp quan trọng nhằm san sẽ rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Bảo hiểm tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức như: Bảo hiểm cho hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. Có thể học hỏi một số hình thức bảo hiểm mà các nước đã thực hiện như sau:

- Khách hàng vay tham gia mua bảo hiểm tín dụng. Khi mà khách hàng rơi vào tình trạng thất nghiệp, phá sản… không có khả năng trả nợ vay ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ trả. Đây là biện pháp quản lý rủi ro tín dụng cần quan tâm, đặc biệt trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Cho đến nay, chỉ có một số ít ngân hàng Việt Nam sử dụng bảo hiểm tín dụng để quản lý phòng ngừa rủi ro cho mình và đặc biệt là cho khách hàng cá nhân.

- Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng.

- Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay.

- Ưu điểm của biện pháp sử dụng bảo hiểm tín dụng là khi rủi ro tín dụng xảy ra thì nó có thể khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của rủi ro đó, tuy nhiên, nhược điểm của biện pháp này là do phải đóng một khoản phí bảo hiểm trước mắt trong khi đó nhiều người lại có xu hướng coi trọng lợi ích trước mắt hơn lợi ích lâu dài, thêm vào đó, ngành bảo hiểm nước ta cũng chưa thực sự phát triển đạt đến mức độ tạo dựng được niềm tin cho khách hàng nên nhiều khách hàng cũng như ngân hàng không mấy hứng thú trong việc mua và sử dụng bảo hiểm tín dụng.

- Như vậy, trong mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn, nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như các hoạt động kinh doanh khác không tránh khỏi những rủi ro.  Do đó quản lý rủi ro là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Vì thế để quản lý rủi ro có hiệu quả ngân hàng cần sử dụng một cách linh hoạt các biện pháp quản trị rủi ro, để đạt được những mục tiêu của ngân hàng cũng như hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.

4.4.4. Xử lý nợ xấu

Khi xử lý các khoản nợ xấu, Ngân hàng thương mại có 2 sự lựa chọn tổng quan: khai thác hoặc thanh lý khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoán cho vay được trả một phần hay toàn bộ người không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu ngân thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp pháp lý để đạt mục tiêu.

- Tổ chức khai thác: 

+ Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tham gia tổ chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết người vay thật thà thái độ của họ đối với khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có vốn lớn trong doanh nghiệp, một số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể tạo lợi nhuận đủ số lượng để hoàn trả khoản vay đáng nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khác cần cho việc duy trì doanh nghiệp, nếu người vay không thể trả nợ theo nghĩa sự vỡ nợ thì ngân hàng nên thực hiện thanh lí.

+ Hầu hết các khoản cho vay khó đòi tại ngân hàng thương mại được xử lí bằng phương pháp khai thác, nghĩa là người vay được phép tự khắc phục khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ ngân hàng càng nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không phải là một công cụ pháp lí, nó có thể có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay các biện pháp có thể bao gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô hoàn trả cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh hơn ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh nó, cho đến khi bảo đảm rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả.

+ Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn khó khăn, lập tức ngân hàng áp dụng biện pháp để bảo đảm thế chấp và một thỏa thuận bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng của người cho vay.

- Tổ chức thanh lý: Nếu ngân hàng thấy rõ là việc tổ chức khai thác không tiện lợi, sự thanh lý dưới 1 trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản cho vay đã trở thành nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là ngân hàng đã quyết định sau khi cần nhất tất cả mọi yếu tố kể trên người nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, việc gia hạn hợp đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm ngân hàng sẽ bớt được một tỷ lệ % vốn cấp phát, biện pháp thanh lý là tối ưu nhất. Sự thanh lí thường được nhanh chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính của người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ.

4.5. Kiểm soát rủi ro tín dụng

Kiểm soát rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và những quá trình nhằm chủ động điều khiển, biến đổi rủi ro tín dụng tại một ngân hàng bằng cách kiểm soát tần suất, mức độ rủi ro. Các phương pháp kiểm soát rủi ro tín dụng trong ngân hàng như: 

- Né tránh rủi ro là việc né tránh những đối tượng, những hoạt động hoặc những nguyên nhân làm phát sinh tổn thất, mất mát có thể xảy ra thông qua hoạt động thẩm định, xếp hạng và sàng lọc khách hàng. 

- Ngăn ngừa rủi ro bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro, đối với những khoản vay hoặc cho vay mà yếu tố rủi ro được xác định nhưng có thể khắc phục được thì ngân hàng có thể xem xét, cân nhắc và thực hiện việc giám sát nhằm không để xảy ra các nguy cơ gây ra rủi ro. 

- Giảm thiểu tổn thất do rủi ro gây ra là biện pháp nhằm làm giảm mức độ thiệt hại do rủi ro mang lại nếu nó xảy ra. 

- Chuyển giao rủi ro: Là việc sắp xếp để một vài đối tượng gánh chịu hoàn toàn hay một phần tổn thất xảy ra ví dụ như ngân hàng gặp rủi ro sẽ chuyển giao cho công ty bảo hiểm, người kinh doanh rủi ro hoặc cho ngân sách nhà nước.

5. Nhân tố ảnh hưởng đến phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng  

5.1 Nhân tố chủ quan

5.1.1. Sự nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa nghiêm túc các quy định hiện hành

Trong cho vay, nếu NH chỉ tập trung vốn quá lớn vào một số khách hàng thì rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu như khách hàng đó rơi vào tình trạng thua lỗ, khi đó NH sẽ phải chịu rủi ro lớn. Chính vì vậy không thể để tình trạng để trứng vào cùng một giỏ được mà cần phải biết phân tán rủi ro. Nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy định trên, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu dễ dãi, buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đến nơi đến chốn đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn. 

5.1.2. Sự sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm của một số cán bộ cho vay

Đành rằng rủi ro, thiệt hại trong cho vay là không thể tránh khỏi, thậm chí có trường hợp phải chấp nhận như rủi ro, tổn thất do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Nhưng, nếu cán bộ, đặc biệt là cán bộ có liên quan đến công tác cho vay nêu cao phẩm chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm sẽ góp phần quan trọng hạn chế được rủi ro. Nhờ chú trọng đến công tác cán bộ, nhất là luôn bồi dưỡng cho họ về phẩm chất, đạo đức, ý thức trách nhiệm nhiều ngân hàng đã có đội ngũ cán bộ tận tụy với nghề. 

5.1.3. Chưa phát huy hết vai trò công tác kiểm tra nội bộ

Kiểm tra nội bộ nên được phát huy về bản chất hơn tính hình thức và phải được xem như là một hệ thống “giảm phanh” của cỗ xe tín dụng. Tín dụng càng tăng trưởng với tốc độ lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả mới có thể tránh cho cỗ xe lao đi trước những rủi ro vốn luôn tồn tại trên con đường đi tới. Thực tế cho thấy, tại một số NH đội ngũ nhân viên kiểm toán nội bộ đa số tuổi đời còn non trẻ, chưa có kinh nghiệm thực tế trong cho vay nên dẫn đến tình trạng nhân viên kiểm toán ấy chỉ biết dựa vào quy trình do NH ban hành mà kiểm tra hồ sơ của cán bộ tín dụng, chủ yếu chỉ kiểm tra xem hồ sơ có được giải quyết theo đúng quy trình hay không, hồ sơ vay vốn, hồ sơ pháp lý chứng từ sử dụng vốn vay của khách hàng có được đầy đủ và lưu hồ sơ có khoa học hay không... Bên cạnh đó, do chưa được tiếp xúc với báo cáo tài chính của các công ty trên thực tế mà chỉ dựa trên những gì đã được học nên khả năng phân tích báo cáo tài chính còn kém, không đề xuất được ý kiến của bản thân trong những đợt kiểm tra hồ sơ nội bộ. 

5.1.4. Công tác giám sát và quản lý nợ sau khi cho vay còn yếu

Việc giám sát và quản lý nợ sau khi cho vay cũng là một trong những công cụ hữu ích góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng. Khi NH cho vay thì khoản cho vay phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo được hoàn trả. Đây cũng là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ làm tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay không những để tuân thủ các điều khoản đã đề ra trong hợp đồng tín dụng đã ký mà còn là điều kiện để tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng kinh doanh. Mỗi cán bộ tín dụng là người nắm rõ nhất tình hình “sức khỏe” của DN mình nắm giữ vì vậy kiểm tra sau chính là cơ hội để chia sẻ, tâm sự, tư vấn với khách hàng, để hiểu thêm họ đang cần gì và NH có thể giúp được gì cho họ, giúp cho quy mô sản xuất kinh doanh của DN ngày càng phát triển hơn hay nói cách khác cán bộ tín dụng phải là người hiểu rõ DN nhất. Tuy nhiên, do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của một số cán bộ ngân hàng, cũng như do hệ thống quản lý thông tin của doanh nghiệp còn lạc hậu, không cung cấp kịp thời những thông tin mà ngân hàng yêu cầu, vì vậy, công tác kiểm tra sau vẫn chưa được thực hiện tốt.

5.1.5. Sự thiếu thông tin về khách hàng

Sự thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng dễ dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm, làm phát sinh rủi ro cho ngân hàng. Sự hợp tác của các ngân hàng thương mại chưa thật sự chặt chẽ cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra những rủi ro tín dụng. Một khách hàng vay vốn tại nhiều ngân hàng khác nhau nhưng khả năng tài chính để trả được nợ vay phải là một con số cụ thể và có giới hạn tối đa. Nếu do thiếu sự trao đổi thông tin, dẫn đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Trong các nguyên nhân kể trên, nguyên nhân thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin về khách hàng vay và thông tin về môi trường kinh tế mà khách hàng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến rủi ro tín dụng.

5.2. Nhân tố khách quan

Cho đến nay, ngân hàng thương mại nhà nước vẫn là người cho vay doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn nhất. Có nhiều lý do: Mối quan hệ truyền thống, cùng hình thức sở hữu, nhu cầu vay lớn và khả năng cho vay lớn (ngân hàng thương mại cổ phần khó đáp ứng), nếu có chuyện gì thì cùng Nhà nước xử lý. ngân hàng thương mại NN Việt Nam do Nhà nước sở hữu duy nhất. Nhà nước với chức năng quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc cho vay của ngân hàng thương mại NN là cho vay theo “chỉ thị”. Chính vì vậy mà có nơi chính quyền nhận thức vai trò của NH trong phát triển kinh tế địa phương, như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập. Do đó, họ cùng NH tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy người vay trả nợ NH. Nhưng một số cấp chính quyền lại coi NH như kênh tài trợ quan trọng khi kênh ngân sách có khó khăn. Họ gây áp lực cho NH bỏ qua kỷ luật tín dụng để tài trợ cho những dự án tài chính yếu kém song kỳ vọng lại lớn. Một số cán bộ NH lợi dụng để chia chác kiếm lợi, làm hại NH. Quan hệ tiêu cực này dựa trên nhận thức coi NH “là người dưới quyền”, tiền kiểu gì cũng là của Nhà nước.

Lãi suất tiết kiệm

(Từ cao đến thấp)
Tại quầyOnline
Kỳ hạn (tháng)
1
3
6
9
12
(Đơn vị: %/năm)Xem toàn bộ

Lãi suất vay

(Từ thấp đến cao)
Ngân hàng
Lãi suất
Thời gian ưu đãi
(Đơn vị: %)Xem toàn bộ

xosovietlott.net

Power 6/55

Mỗi 18h thứ 3,5,7

38.396.133.300 VNĐ

Mega 6/45

Mỗi 18h thứ 4,6 và chủ nhật

66.844.435.000 VNĐ

Max 3D

Mỗi 18h thứ 2,4,6

1.000.000.000 VNĐ

Max 4D

Mỗi 18h thứ 3,5,7

15.000.000 VNĐ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM