Trang chủKinh tếThực trạng chính sách thuế gián thu ở Việt Nam giai đoạn 2009-2018
Để có cách nhìn toàn cảnh về hệ thống chính sách thuế gián thu của Việt Nam, ta có thể phân chia về quá trình phát triển và biến đổi của chúng thành các giai đoạn: giai đoạn trước năm 1990 (trước cải cách thuế), giai đoạn từ 1990 -1998 (cải cách thuế bước I), giai đoạn từ 1999 -2008 (cải cách thuế bước II), giai đoạn 2009 -2015 (cải cách thuế bước III), giai đoạn 2016 đến nay. Ở đây, luận án đi sâu nghiên cứu, đánh giá chính sách thuế gián thu từ 2009 đến nay.
Tính đến năm 2009, Việt Nam đã trải qua hơn hai thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới quản lý kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã đi vào phát triển ổn định và dần đứng vững trên thị trường sau tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008. Các loại hình kinh doanh mới ra đời và ngày càng phát triển góp phần quan trọng vào tăng trưởng của nền kinh tế và nguồn thu cho NSNN.
Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, tham gia ký kết các Hiệp định kinh tế song phương, đa phương và đặc biệt là Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO (2007). Trong bối cảnh đó, hệ thống thuế cũng phải có sự điều chỉnh căn bản cho phù hợp với tình hình mới của nền kinh tế nhằm tạo ra sự chuyển biến lớn của nền kinh tế, khuyến khích thỏa đáng tích lũy, đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2009 -2015 là giai đoạn mà Nhà nước tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về pháp luật thuế trong từng sắc thuế thuộc hệ thống thuế nói chung và thuế gián thu nói riêng nhằm xử lý những tác động của khủng hoảng suy thoái tài chính toàn cầu đến tình hình sản xuất và kinh tế trong nước nhưng vẫn phải đảm bảo phù hợp với các yêu cầu của hội nhập. Những cải cách liên quan đến hệ thống thuế gián thu được thể hiện qua các nội dung cụ thể trong từng sắc thuế.
Thuế GTGT từ khi được áp dụng ở Việt Nam đến nay, thuế GTGT đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, việc sửa đổi, bổ sung chủ yếu tập trung vào việc xử lý thuế suất, phạm vi đánh thuế, điều kiện để khấu trừ và hoàn thuế…. Thông qua những vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện. Vẫn dựa trên cơ sở là doanh thu, thuế GTGT đánh vào toàn bộ hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế theo quy định cụ thể của Luật.
Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 quy định danh mục 25 loại hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế (Phụ lục 01), bao gồm sản phẩm của một số ngành đang cần khuyến khích, để thúc đẩy phát triển các lĩnh vực như: (i) Nhóm hàng hóa dịch vụ là sản phẩm nông nghiệp, là dịch vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp, (ii) Nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế theo các cam kết quốc tế, (iii) Hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế vì lý do xã hội, (iv) Nhóm hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế do người kinh doanh có thu nhập thấp (doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống), (v) Nhóm hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước trả tiền như vũ khí, khí tài phục vụ cho an ninh, quốc phòng….
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Trong đó giá tính thuế là giá hàng hóa, dịch vụ chưa có thuế GTGT. Thuế suất thuế GTGT có 3 mức áp dụng cho từng nhóm hàng hóa, dịch vụ: mức 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu và một số dịch vụ xuất khẩu, mức 5% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất và đời sống như sản phẩm cơ khí, hóa chất cơ bản, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm, phân bón…áp dụng mức 10% đối với các hàng hóa thông thường.
Hai phương pháp tính thuế GTGT được áp dụng là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Phương pháp khấu trừ áp dụng đối với các đối tượng tuân thủ đầy đủ các điều kiện về tổ chức hệ thống kế toán, chứng từ, hóa đơn
Phương pháp trực tiếp: áp dụng với những cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng đối với DN, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế; Hộ, cá nhân kinh doanh; Nhà thầu nước ngoài chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Tỷ lệ % để tính thuế GTGT được phân biệt theo 4 loại ngành nghề: (i) Phân phối, cung cấp hàng hoá: 1%, (ii) Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%, (iii) Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 3%,
(iv) Hoạt động kinh doanh khác: 2%.
Doanh thu để tính thuế GTGT là tổng số tiền bán hàng hóa, dịch vụ thực tế ghi trên hóa đơn bán hàng đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bao gồm các khoản phụ thu, phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Cơ chế khấu trừ đối với những đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ là điểm quan trọng quyết định tính hiện đại và trung lập kinh tế của thuế GTGT. Với cơ chế này, số thuế GTGT phải nộp cho NSNN sẽ là chênh lệch giữa số thuế GTGT khi bán hàng trừ đi số thuế GTGT phải trả khi mua hàng.
Thuế TTĐB với mục tiêu đặt ra là hướng dẫn sản xuất, định hướng tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng một cách hợp lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá và dịch vụ. Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2009 quy định như sau:
Đối tượng chịu thuế TTĐB bao gồm 10 loại hàng hoá và 6 loại hình dịch vụ (Phụ lục 02). Đây là các loại hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng chi trả cao, sẵn sàng đóng góp thuế ở mức cao, những hàng hoá, dịch vụ cần hạn chế tiêu dùng, cần kiểm soát bởi việc sử dụng chúng dễ gây ra các tác động tiêu cực, có hại cho môi trường, sức khỏe cá nhân và cộng đồng, hoặc làm tổn thương người tiêu dùng, gây ra gánh nặng cho gia đình và xã hội như: Thuốc lá, đồ uống có cồn (rượu, bia), xăng, điều hoà nhiệt độ (loại dưới 90.000 BTU) và những hàng hoá, dịch vụ cần định hướng hạn chế tiêu dùng, đồng thời cần có sự giám sát của nhà nước, của xã hội thông qua công cụ thuế, như: kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaoke, casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược, xổ số, bài lá, hàng mã, vàng mã…..
Luật hiện hành quy định 5 nhóm hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế TTĐB bao gồm: (1) Hàng hóa do cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, ủy thác cho cơ sở kinh doanh khác để xuất khẩu; (2) Hàng hóa nhập khẩu với mục đích viện trợ, nhân đạo, quà tặng cho các tổ chức Nhà nước,…(3) Tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch; (4) Xe ô tô cứu thương; xe ô tô chở phạm nhân; xe ô tô tang lễ; xe ô tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; (5) Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hoá từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan..
Giá tính thuế TTĐB đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa có thuế TTĐB và chưa có thuế GTGT. Giá tính thuế được tính bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.
Thuế suất thuế TTĐB có tính chất phân biệt giữa các nhóm hàng hóa, dịch vụ trong cùng một nhóm nhằm thực hiện chính sách điều tiết sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng xã hội được quy định tại biểu thuế TTĐB (Phụ lục 03). Biểu thuế suất thuế TTĐB hiện hành có nhiều mức thuế suất khác nhau từ 10% - 70% được áp dụng cho các loại hàng hóa, dịch vụ nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB, theo nguyên tắc:
- Các mức thuế suất từ 10% -20% được áp dụng đối với các mặt hàng được coi là cần thiết đối với một số ngành sản xuất, cần thiết và là thói quen tiêu dùng của người dân nhằm để điều tiết thu nhập ở mức thuế suất thấp hơn như xăng các loại (E5, E10…), napta, chế phẩm khác để pha chế….
- Các mức thuế suất từ 25% - 45% được áp dụng cho các hàng hóa không khuyến khích tiêu dùng, do yếu tố cần hạn chế thấp do không có tác động xấu và rõ ràng đến sức khỏe như: các mặt hàng rượu nhẹ dưới 200, tàu bay, du thuyền, kinh doanh matxa, karaoke, casio, ….
- Các mức thuế suất từ 50% - 70%: được áp dụng cho mặt hàng không có lợi cho sức khỏe và quốc kế dân sinh như thuốc lá, vàng mã, xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi có dung tích xi lanh trên 2.000 cm3…
Như vậy, chính sách thuế TTĐB trong giai đoạn này đã có những sửa đổi bổ sung hợp lý, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội và đã đạt được mục tiêu đề ra là góp phần hình thành một xu hướng tiêu dùng xã hội lành mạnh và công bằng hơn, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn này thuế TTĐB đã thể hiện là một sắc thuế được sử dụng hữu hiệu cho việc bổ sung nguồn thu cho NSNN khi mà tác động của việc thực hiện cắt, giảm thuế NK theo các cam kết mà Việt Nam đã kí kết khi là thành viên của WTO.
Cũng giống như các nước có nền kinh tế đang phát triển, thuế XK, thuế NK đối với Việt Nam vẫn là sắc thuế mang lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách và nó còn là một công cụ bảo hộ cho sản xuất trong nước. Trong giai đoạn 2009 -2015 thuế XK, thuế NK đã được sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với một số luật thuế khác như thuế GTGT, thuế TTĐB…và phù hợp với yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Đối tượng chịu thuế là hàng hoá được phép XK, NK qua biên giới Việt Nam. Hàng hóa XK từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan, hàng hóa NK từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước. Hàng hóa XK, NK tại chỗ và hàng hóa XK, XK của doanh nghiệp thực hiện quyền XK, quyền NK, quyền phân phối.
Đối tượng chịu thuế XK, thuế NK không áp dụng đối với các trường hợp: hàng hóa quá cảnh, chuyển khẩu, trung chuyển, hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại, hàng hóa XK từ khu phi thuế quan ra nước ngoài, hàng hóa NK từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan.
Đối tượng không chịu thuế là: (i) Hàng hoá vận chuyển quá cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam theo quy định của pháp luật. (ii) Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại của các Chính phủ, các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân người nước ngoài cho Việt Nam và ngược lại, nhằm phát triển kinh tế - xã hội, hoặc các mục đích nhân đạo khác được thực hiện thông qua các văn kiện chính thức giữa hai bên, được cấp có thẩm quyền phê duyệt; các khoản trợ giúp nhân đạo, cứu trợ khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. (iii) Hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài; hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan; hàng hóa đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác. (iv) Hàng hoá là phần dầu khí được dùng để trả thuế tài nguyên cho Nhà nước khi xuất khẩu.
Cấu trúc biểu thuế bao gồm ba loại thuế suất khác nhau: (1) Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với Việt Nam; Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, hầu hết các nước Châu Á ngoài ASEAN, Niu Dilan,…(2) Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác (chủ yếu là thuế CEPT – chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung). (3) Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa NK không thuộc các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt, “được quy định bằng 150% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng”.
Nổi bật nhất trong giai đoạn này là sự ra đời của Luật thuế BVMT. Luật thuế BVMT được Quốc hội Khóa XII, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15-11-2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2012 có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng bộ, ổn định điều chỉnh toàn diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường, khắc phục hạn chế trong các chính sách thu trước đây, tạo nguồn lực tài chính bù đắp chi phí bảo vệ môi trường, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển bền vững, đồng thời đáp ứng việc thực hiện cam kết quốc tế phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Theo quy định của Luật thuế BVMT:
Đối tượng chịu thuế BVMT là những sản phẩm mà việc sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng chúng gây tác hại lâu dài đến môi trường bao gồm 8 nhóm hàng hóa như: xăng, dầu, than đá, dung dịch HCFC (Đây là chất được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như: làm lạnh, điều hoà không khí), túi nilon, thuốc diệt cỏ, thuốc bảo quản lâm sản…Người nộp thuế là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế BVMT.
Căn cứ tính thuế BVMT là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế suất tuyệt đối. Số lượng hàng hóa tính thuế đã được quy định cụ thể đối với từng loại hàng hóa để phù hợp với đặc thù của sản xuất hàng hóa, cụ thể. Đối với hàng hóa sản xuất trong nước, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho. Đối với hàng hóa nhập khẩu, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa nhập khẩu. Mức thuế tuyệt đối được quy định theo biểu khung thuế (Phụ lục 04).
Người nộp thuế BVMT được hoàn thuế đã nộp trong một số trường hợp như: (i) Hàng hoá nhập khẩu còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan, được tái xuất khẩu ra nước ngoài. (ii) Hàng hoá nhập khẩu để giao, bán cho nước ngoài thông qua đại lý tại Việt Nam; xăng dầu để bán cho phương tiện vận tải của hãng nước ngoài trên các tuyến đường qua cảng Việt Nam hoặc phương tiện vận tải của Việt Nam trên các tuyến đường vận tải quốc tế theo qui định của pháp luật. (iii) Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức kinh doanh hàng tạm nhập, tái xuất. (iv) Hàng hoá nhập khẩu do người nhập khẩu tái xuất khẩu ra nước ngoài. (v) Hàng hoá tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm theo qui định của pháp luật khi tái xuất khẩu ra nước ngoài.
Từ năm 2016 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng kể, vươn lên là một trong những nước thu hút nhiều FDI nhất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, đẩy mạnh XK trên nhiều lĩnh vực. Để duy trì đà tăng trưởng này, một vấn đề đặt ra là cần hoàn thiện hơn nữa các chính sách thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp các thành phần kinh tế nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã từng bước hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Chính sách thuế gián thu trong từ năm 2016 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới. Cụ thể:
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Luật cũng qui định 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Các tổ chức cá nhân có sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT hoặc có NK hàng hóa chịu thuế GTGT phải có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định. Cá nhân, hộ gia đình kinh doanh có doanh thu năm không quá 100 triệu đồng không thuộc diện phải nộp thuế GTGT.
Trong giai đoạn này Việt Nam vẫn áp dụng 3 mức thuế suất 0%, 5%, 10% đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT nhưng đã có sự dịch chuyển các nhóm hàng hóa, dịch vụ từ không chịu thuế GTGT hoặc từ các mức thuế suất trước đây sang mức thuế suất phù hợp hơn. Cụ thể: Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung đã chuyển “dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư” từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế suất 10%”. Việc chuyển dịch vụ này vào diện chịu thuế GTGT là cần thiết để bảo đảm tính liên hoàn của thuế GTGT, vì trong thực tiễn các doanh nghiệp đã đầu tư lớn cho việc xử lý chất thải, tái chế phế liệu mà sản phẩm đầu ra (phân vi sinh, sản phẩm tái chế từ nhựa, thuỷ tinh,...) chịu thuế GTGT nhưng không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào.
Bổ sung quy định về nguyên tắc xác định hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu áp dụng thuế suất 0% là “Hàng hoá, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong khu phi thuế quan; hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ”. Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về việc xác định hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được căn cứ vào nơi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ ở nước ngoài, kể cả các loại hình dịch vụ thực hiện trong nước nhưng được sử dụng ở nước ngoài, tránh các trường hợp lách luật cũng như giải quyết được vướng mắc cho NNT trong trường hợp dịch vụ được xuất khẩu và được sử dụng ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng không được xem là xuất khẩu theo quy định hiện hành vì phía nước ngoài này có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định “giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá chịu thuế BVMT là giá bán đã có thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế GTGT”. Việc bổ sung quy định này là để bảo đảm đồng bộ trong hệ thống chính sách thuế và phù hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế về giá tính thuế GTGT là giá bán cuối cùng chưa có thuế GTGT.
Hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp vẫn được áp dụng. Tuy nhiên trong giai đoạn này, quy định về phương pháp tính thuế đối với NNT có sửa đổi, bổ sung.
Thực tế quản lý thuế hiện có khoảng 550.000 tổ chức kinh tế thuộc diện kê khai và nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Trong đó có khoảng 1/3 là doanh nghiệp có quy mô nhỏ và rất nhỏ, doanh thu chưa tới 1 tỷ đồng/năm, số thu thuế GTGT chiếm khoảng 0,3% tổng thu về thuế GTGT. Đối với hầu hết doanh nghiệp nhỏ, rất nhỏ, việc tổ chức bộ máy kế toán chưa bảo đảm tuân thủ theo Luật Kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ. Một số ít doanh nghiệp lợi dụng cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp mua bán hoá đơn, thậm chí lập khống hoá đơn cho các doanh nghiệp khác để kê khai khấu trừ đầu vào, vừa ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh, vừa gây thất thu ngân sách nhà nước. Theo kinh nghiệm quốc tế thì đa số các nước đều có quy định ngưỡng doanh thu kê khai nộp thuế GTGT để xác định đối tượng đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (có doanh thu vượt trên mức ngưỡng) nhằm đơn giản hoá thủ tục, tiết kiệm chi phí cho người nộp thuế có quy mô kinh doanh nhỏ và chống gian lận thuế.
Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu: Áp dụng đối với Doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế; Hộ, cá nhân kinh doanh; Nhà thầu nước ngoài chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Bổ sung trường hợp hoàn thuế theo quý, theo đó trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng khai theo quý nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo; trường hợp sau bốn quý tính từ quý đầu tiên phát sinh số thuế GTGT chưa được khấu trừ mà vẫn còn số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế. Sửa đổi phương thức hoàn thuế: từ “trong 03 tháng liên tục có số thuế chưa được khấu trừ hết” thành “sau ít nhất 12 tháng tính từ tháng đầu tiên nếu còn số thuế âm mới được hoàn thuế”. Việc sửa đổi quy định này có tác dụng khắc phục bất cập hiện nay, giảm khó khăn cho quỹ hoàn thuế, góp phần chống lợi dụng, gian lận trong hoàn thuế đồng thời có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất trong nước đẩy nhanh việc đưa dự án vào hoạt động và thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được hoàn thuế như hiện nay.
Sửa mức thuế tối thiểu được hoàn đối với đầu tư và xuất khẩu đang quy định là 200 triệu đồng thành 300 triệu đồng. Quy định này góp phần bảo đảm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và điều kiện, khả năng quản lý hiện nay, giảm bớt thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho NNT và cơ quan thuế, giảm khối lượng hồ sơ hoàn thuế
Bổ sung quy định việc hoàn thuế đối với hàng hoá mang theo khi xuất cảnh của người mang hộ chiếu nước ngoài.
Ngoài ra, Luật thuế GTGT sửa đổi Đặc biệt, số 106/2016/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 quy định không hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa NK để XK, hàng hóa XK không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải quan, giúp ngăn chặn tình trạng buôn lậu, chống gian lận và gây thất thu cho NSNN; không hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký, dự án đầu tư ngành nghề kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh hoặc không duy trì đủ điều kiện trong quá trình hoạt động, góp phần bảo đảm minh bạch về vốn, lành mạnh hóa các hoạt động sản xuất - kinh doanh và bảo đảm lợi ích của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo đồng bộ với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, qua đó góp phần quản lý chặt chẽ, lành mạnh hóa các hoạt động kinh tế cũng như đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế.
Chính sách thuế TTĐB giai đoạn này đã có những sửa đổi, bổ sung trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với người sản xuất, kinh doanh và với người tiêu dùng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng. Cụ thể:
Loại bỏ khỏi đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component) và các chế phẩm khác để pha chế xăng. Sự sửa đổi này sẽ giải quyết được vấn đề phát sinh trong thực tiễn, gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một số lĩnh vực, đó là nap-ta và chế phẩm tái hợp không chỉ sử dụng để sản xuất xăng mà còn được sử dụng làm dung môi để sản xuất các sản phẩm khác không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như sơn, sợi tổng hợp, chất tẩy rửa…
Bổ sung vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB đối với tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng. Mục tiêu điều tiết thuế TTĐB đối với tàu bay, du thuyền là nhằm điều tiết vào tàu bay, du thuyền cá nhân, sử dụng cho mục đích tiêu dùng cá nhân. Việc bổ sung tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là nhằm đảm bảo đúng mục tiêu điều tiết của thuế TTĐB. Hơn nữa, an ninh, quốc phòng là lĩnh vực Nhà nước đảm bảo 100% ngân sách nên về kỹ thuật, việc đưa vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng giúp giảm bớt các thủ tục thu, chi ngân sách.
Luật hóa quy định về giá tính thuế thuế TTĐB trong trường hợp hàng hóa vừa chịu thuế TTĐB vừa chịu thuế BVMT: Là giá bán chưa có thuế TTĐB và thuế BVMT.
Thuế suất thuế TTĐB hiện nay ở Việt Nam có tính chất phân biệt giữa các nhóm hàng hóa, dịch vụ trong cùng một nhóm nhằm thực hiện chính sách điều tiết sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng xã hội được quy định tại biểu thuế TTĐB được công khai theo từng lộ trình cụ thể.(Phụ lục 04). Có sự điều chỉnh tăng thuế suất của một số hàng hóa, dịch vụ như rượu, bia....Việc tăng thuế đối với rượu, bia nhằm góp phần giảm bớt tình trạng lạm dụng rượu, bia mà hậu quả của nó đối với trật tự an toàn xã hội và sức khỏe con người đã ở mức báo động. Việc quy định mức thuế suất thấp đối với xăng sinh học là nhằm tạo điều kiện hạ giá bán của xăng sinh học, qua đó, thúc đẩy sử dụng nhiên liệu ít gây hại môi trường.
Từ năm 2016 đến nay chính sách thuế XK, thuế NK của Việt Nam được thể hiện ở Luật thuế số 107/2016/QH13. Luật thuế XK, thuế NK năm 2016 đã bổ sung các qui định về Thuế chống bán phá giá, Thuế chống trợ cấp, Thuế tự vệ để đảm bảo cơ sở pháp lý cũng như hiệu lực, hiệu quả của các biện pháp đánh thuế bổ sung ngoài thuế NK nhằm đảm bảo hỗ trợ cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước theo đúng qui định của WTO cũng như thông lệ quốc tế hiện nay.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM