Develop by: TopOnSeek Website: https://www.toponseek.com

Trang chủNgân hàngNguồn vốn ngân hàng thương mại: đặc điểm, cơ cấu, vai trò

Nguồn vốn ngân hàng thương mại: đặc điểm, cơ cấu, vai trò

author-image

Published 28/03/2023

0/5 - (0 bình chọn)
image-cover
icon-share-facebook
icon-share-twitter
icon-share-reddit
icon-share-linkedin
icon-share-pinterest

1. Nguồn vốn ngân hàng thương mại là gì?

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận, trong đó “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi, Cấp tín dụng và Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. (Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của Việt Nam tại khoản 3 điều 4).

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại chính là những giá trị tiền tệ được ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động với mục đích để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.

2. Đặc điểm nguồn vốn ngân hàng thương mại

Xét về bản chất, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Nói cách khác, người chủ sở hữu chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng thương mại để hưởng một khoản thu nhập gọi là lãi. Nhờ đó, ngân hàng thực hiện vai trò tập trung, phân phối lại vốn tiền tệ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của ngân hàng trong việc thực hiện chức năng của mình.

3. Cơ cấu nguồn vốn ngân hàng thương mại

3.1. Nguồn vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn mang tính thường xuyên ổn định của Ngân hàng thương mại được dùng vào mục đích mua sắm tài sản, trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, góp vốn liên doanh, cho các thành phần kinh tế vay và thực hiện các dịch vụ khác của Ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được xem là tài sản đảm bảo mang lại niềm tin cho khách hàng, duy trì khả năng thanh toán. Nguồn hình thành vốn này đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của Ngân hàng. Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động ngân hàng nhưng giữ vị trí rất quan trọng. Vốn chủ sở hữu là một trong các căn cứ quyết định quy mô, khối lượng huy động vốn của Ngân hàng thương mại.

3.1.1. Nguồn vốn điều lệ

Vốn điều lệ là vốn thuộc sở hữu Ngân hàng, ghi trong bản điều lệ của Ngân hàng được hình thành ngay từ khi Ngân hàng mới thành lập. Vốn điều lệ có thể do Nhà nước cấp nếu đó là Ngân hàng thương mại quốc doanh, có thể là vốn đóng góp cổ đông nếu là Ngân hàng thương mại cổ phần. Vốn điều lệ không được nhỏ hơn vốn pháp định theo luật định mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động. 

Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động giúp gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau, bao gồm:

3.1.2. Lợi nhuận giữ lại

Khi ngân hàng kinh doanh có lãi sẽ chuyển một phần lợi nhuận ròng thành vốn đầu tư kinh doanh. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của ngân hàng thương mại. Vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, vốn góp thêm nhằm mở rộng quy mô hoạt động hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn, đổi mới trang thiết bị. Hình thức huy động vốn này không mang tính thường xuyên nhưng giúp ngân hàng có lượng vốn sở hữu lớn khi cần thiết.

3.1.3. Các quỹ dự trữ

Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Việc hình thành các quỹ này làm tăng vốn cho ngân hàng đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh.

3.2. Nguồn vốn huy động

Vốn huy động nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động hình thành thông qua việc huy động từ tiền gửi và phát hành các giấy tờ có giá.

3.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi giao dịch. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào.

Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Các ngân hàng thậm chí còn yêu cầu duy trì một số dư tối thiểu trên tài khoản. Trường hợp trong thời gian dài trên tài khoản không có tiền hoặc có số dư thấp hơn mức tối thiểu quy định thì chủ tài khoản còn phải trả phí duy trì tài khoản cho ngân hàng. Việc phải trả phí dịch vụ thanh toán hay không là tùy vào quy định của ngân hàng đối với từng loại hình dịch vụ thanh toán. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán thường xuyên biến động vì vậy ngân hàng chủ yếu dùng để cho vay ngắn hạn.

3.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn

Tiền gửi có kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến vài năm. Mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nhưng những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. 

Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lãi. Về nguyên tắc, tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra trước thời hạn song để cạnh tranh thu hút khách hàng các ngân hàng vẫn cho phép rút trước hạn. Tuy nhiên, người gửi tiền rút trước hạn sẽ phải chịu một khoản phạt như chỉ được hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi suất tùy theo quy định của từng ngân hàng trong từng thời kỳ.

Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền tương đối ổn định do đó ngân hàng thương mại thường dùng để cho vay có kỳ hạn. Để thu hút nhiều hơn loại tiền này ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.

3.2.3. Tiền gửi tiết kiệm

Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm đích hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Hình thức phổ biến nhất của tiền gửi tiết mục kiệm là sổ tiết kiệm.Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi một cuốn sổ dùng để ghi nhận các khoản tiền gửi vào và tiền rút ra.Quyển sổ này có giá trị xác nhận về khoản tiền đã gửi.

Ngoài các loại tiền gửi trên, trong ngân hàng thương mại còn có các khoản tiền gửi khác như tiền gửi của kho bạc nhà nước, tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại phát hành các giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Tuy nhiên, lượng vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định.

3.3. Vốn vay

Trong quá trình kinh doanh các ngân hàng thương mại thường xảy ra tình trạng thừa vốn và thiếu vốn. Trường hợp xảy ra là khi huy động vốn nhưng chưa vay hết hoặc khách hàng có nhu cầu vay lớn mà ngân hàng không có khả năng đáp ứng. Khi thừa vốn, ngân hàng thương mại có thể gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi. Ngược lại, khi thiếu vốn ngân hàng thương mại có thể vốn từ ngân hàng trung ương hay các tổ chức tín dụng cho vay khác.

3.3.1. Vay ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại có thể vốn từ ngân hàng trung ương để giải quyết nhu cầu cấp bách. Ngân hàng nhà nước cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức là chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá và cho vay thế chấp. 

Cụ thể, các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng nhà nước tại Việt Nam bao gồm:

- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ theo yêu cầu của nền kinh tế như thu mua nông sản, dự trữ vật tư, nguyên liệu.

3.3.2. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ từ các tổ chức tín dụng khác

Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng trung ương. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá nhiều lần dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại ngân hàng trung ương.

Trong khi đó lại có một vài ngân hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ dư thừa. Ngoài ra, trong trường hợp nhu cầu vốn cấp bách, vay vốn từ các tổ chức tín dụng có thể thay thế cho việc vay vốn từ ngân hàng trung ương.

3.3.3. Vay từ thị trường vốn

Ngân hàng thương mại có thể phát hành các loại giấy tờ có giá như trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu để vay vốn trên thị trường tài chính. Nếu thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn, ngân hàng thương mại vay các khoản vay trung và dài hạn trên thị trường vốn để đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư. Đối với ngân hàng thương mại lớn, có uy tín, lãi cao thì khả năng huy động vốn là rất lớn nhưng đối với ngân hàng nhỏ, chưa có uy tín thì việc vay mượn sẽ khó hơn do đó để vay mượn ngân hàng nhỏ thường phải trả lãi cao hơn hoặc phải thông qua một ngân hàng khác có uy tín để bảo lãnh.

3.4. Vốn khác

Ngoài các nguồn vốn kể trên, trong quá trình hoạt động ngân hàng thương mại còn tạo lập vốn từ các nguồn vốn khác bao gồm:

- Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng.

- Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng như nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ trung gian của ngân hàng.

4. Vai trò của huy động vốn của ngân hàng thương mại

4.1. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Huy động vốn là hoạt động tạo vốn quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại tập trung vào việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư để tiến hành hoạt động cho vay. Vốn huy động được càng nhiều thì khả năng cho vay càng lớn nhờ đó mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.

Hoạt động huy động vốn đảm bảo uy tín và vị thế của ngân hàng thương mại. Uy tín của ngân hàng thường dựa trên khả năng huy động vốn và khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng. Huy động vốn càng nhiều giúp cho ngân hàng thương mại càng mở rộng được hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa các dịch vụ, nâng cao vị thế của ngân hàng thương mại.

Vốn huy động quyết định đến khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động lớn cho thấy quy mô, phương tiện kỹ thuật của ngân hàng hiện đại tạo điều kiện cho ngân hàng tăng sự chủ động về lãi suất, thời hạn, giúp ngân hàng đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, phân tán rủi ro, tăng cường thêm vốn và lợi nhuận cho ngân hàng qua đó sức cạnh tranh của ngân hàng được nâng lên.

4.2. Đối với toàn bộ nền kinh tế

Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trên cơ sở lượng vốn huy động được, ngân hàng tiến hành cho vay để phát triển sản xuất, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế ngành, các thành phần kinh tế và công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Huy động vốn của ngân hàng thương mại là huy động của cải xã hội để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, tiền tiết kiệm, tạm thời nhàn rỗi của cá nhân, tổ chức được huy động cho quá trình vận động của nền kinh tế giúp nâng cao mức sống xã hội.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM