Develop by: TopOnSeek Website: https://www.toponseek.com

Trang chủKinh tếHoàn thiện thuế gián thu ở Việt Nam cần lưu ý điều gì?

Hoàn thiện thuế gián thu ở Việt Nam cần lưu ý điều gì?

author-image

Published 31/03/2023

0/5 - (0 bình chọn)
image-cover
icon-share-facebook
icon-share-twitter
icon-share-reddit
icon-share-linkedin
icon-share-pinterest

Hoạch định chính sách được coi như là bước khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.

Hoạch định chính sách thuế gián thu là một công việc phức tạp và phải căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Vì vậy, khi hoạch định chính sách thuế gián thu cần quan tâm một số vấn đề sau: 

1. Quy trình hoạch định chính sách thuế

Hoạch định chính sách công nói chung và hoạch định chính sách thuế gián thu nói riêng là công việc thường xuyên của Nhà nước và được xây dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách chính là trình tự, công đoạn để tạo ra một chính sách, quy trình này gồm có :

1.1. Xác định và lựa chọn vấn đề

Vấn đề của chính sách thuế gián thu được hiểu là một mâu thuẫn xuất hiện trong việc đánh thuế vào các hàng hóa, dịch vụ từ khâu sản xuất, lưu thông và tiêu dùng, từ đó đòi hỏi nhà nước cần ban hành một chính sách thuế gián thu nào đó để giải quyết vấn đề vướng mắc đặt ra. Để xác định và lựa chọn đúng vấn đề cần giải quyết, đòi hỏi các nhà hoạch định cần phải dựa vào việc phân tích “tiền chính sách”, gồm: (1). Khẳng định đường lối: Các nhà hoạch định phải xuất phát từ mục tiêu tổng quát và ý chí của giai cấp cầm quyền để xác định, lựa chọn đúng vấn đề cần đề ra chính sách. (2). Nghiên cứu và dự báo: Công tác nghiên cứu và dự báo cực kỳ quan trọng, vì nó tạo cơ sở thông tin cho việc xác định vấn đề, xác định mục tiêu cũng như xác định giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu của chính sách.

1.2. Xác định mục tiêu của chính sách thuế gián thu

Mục tiêu của một chính sách là cái đích mà chính sách đó phải đạt tới. Mục tiêu của chính sách thuế gián thu được đề ra dựa trên tình hình thu  NSNN trong từng giai đoạn có tính đến nguồn lực và khả năng thực hiện mục tiêu.

1.3. Xây dựng các phương án chính sách

Sau khi xác định được mục tiêu của chính sách thuế gián thu thì công đoạn tiếp theo là tìm kiếm các phương án chính sách. Để tạo điều kiện cho việc lựa chọn phương án chính sách tối ưu thì cần phải xây dựng được một số các phương án chính sách. Trong mỗi phương án luôn phải xác định hai yếu tố cơ bản:

  • Các giải pháp của chính sách: giúp chúng ta trả lời được câu hỏi phải làm gì để thực hiện mục tiêu?
  • Các công cụ để thực hiện chính sách: giúp chúng ta trả lời được câu hỏi thực hiện mục tiêu bằng gì?

1.4. Lựa chọn phương án chính sách tối ưu

Sản phẩm của bước trên thường là các phương án chính sách thuế gián thu khác nhau, trong bước này tập trung vào lựa chọn một phương án chính sách thuế chính sách thuế gián thu thích hợp để nhà nước thông qua, ban hành thành chính sách và đưa vào thực hiện.

1.5. Thông qua và quyết định chính sách

Để quá trình thông qua chính sách thuế gián thu được tiến hành thuận lợi, các nhà hoạch định chính sách trước hết vẫn phải cố gắng xây dựng chính sách một cách khoa học và hợp lý nhất, đồng thời biết tham khảo ý kiến của các tổ chức và cá nhân có liên quan, biết tranh thủ sự tán thành, sự ủng hộ của các quan chức. Nếu nội dung của chính sách thuế gián thu đề ra đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của đông đảo nhân dân, nếu quá trình lấy ý kiến nhân dân để thực hiện một cách thực sự dân chủ thì việc thông qua chính sách sẽ diễn ra thuận lợi, không gây xáo trộn trong đời sống chính trị của đất nước.

2. Xác định phạm vi áp dụng

Về mặt kinh tế, xét một cách đơn giản, việc tăng nguồn thu cho ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi áp dụng của từng sắc thuế cụ thể. Để xác định phạm vi áp dụng của một sắc thuế, thông thường dựa trên hai tiêu chí cơ bản là: đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế. Đối tượng chịu thuế trong hệ thống thuế hiện hành có thể là từ các hoạt động kinh doanh hàng hoá hoặc dịch vụ chịu thuế, thu nhập hoặc tài sản. Bản chất của việc xác định đối tượng chịu thuế như vậy là căn cứ vào nguồn gốc hình thành đối tượng tính thuế dưới các dạng như doanh thu, lợi nhuận, thu nhập cá nhân, trị giá tài sản. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, mặc dù những đối tượng tính thuế như vậy có thể dễ dàng quan sát và nắm bắt thông qua các số liệu sổ sách, chứng từ hoá đơn, nhưng về bản chất chúng là kết quả của các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể khác nhau. Vì vậy, trong quan hệ thuế người ta thường phải phân tích xem là nguồn gốc của việc chuyển dịch giá trị như vậy có trở thành một yếu tố cơ bản để thực hiện quyền thu thuế của quốc gia hay không. Ví dụ: một công ty tư vấn nước ngoài thực hiện việc thiết kế công trình tại Việt Nam; quá trình thiết kế thực hiện tại nước ngoài, vậy doanh thu của công ty tư vấn này có phải chịu thuế theo pháp luật Việt Nam hay không. Trên thực tế, có khá nhiều phương án để trả lời cho ví dụ trên tùy thuộc vào việc hệ thống pháp luật thuế căn cứ vào nguồn gốc của doanh thu là từ nơi cung cấp hàng hoá, dịch vụ hay nơi tiêu dùng hàng hoá dịch vụ.

3. Xác định mức thuế

Mức thuế thể hiện mức độ động viên của nhà nước so với giá tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định suất thuế. Mức thuế được thực hiện dưới hai hình thức và thường được phân thành bốn loại.

+ Hai hình thức biểu hiện của mức thuế:

Mức thuế tuyệt đối hay còn gọi là định suất thuế là mức thuế được tính bằng số tuệt đối theo một đơn vị vật lý của đối tượng chịu thuế. 

Mức thuế tương đối hay còn gọi là thuế suất là mức thuế được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên một đơn vị giá trị đối tượng nộp thuế. 

+ Bốn loại mức thuế:

Mức thuế thống nhất chỉ mức nộp thuế như nhau cho tất cả đối tượng chịu thuế.

Mức thuế ổn định chỉ mức nộp thuế được quy định theo một tỷ lệ như nhau so với cơ sở nộp thuế.

Mức thuế lũy tiến chỉ mức thuế phải nộp tăng dần theo mức độ tăng của cơ sở tính thuế. Để thực hiện việc đánh thuế theo loại mức thuế này thường các nước sẽ thiết kế các biểu thuế cụ thể, hiện nay thường có ba loại biểu thuế suất lũy tiến tiêu biểu sau:

Biểu thuế lũy tiến giản đơn là loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành các bậc chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc chịu thuế sẽ quy định mức thuế tuyệt đối phải nộp;

Biểu thuế lũy tiến từng phần là loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành nhiều bậc chịu thuế khác nhau và với mỗi bậc chịu thuế có các quy định về mức thuế suất tăng dần;

Biểu thuế lũy tiến toàn phần cũng tương tự biểu thuế lũy tiến từng phần, chỉ khác mỗi bậc chịu thuế có các quy định về mức thuế suất tăng dần tương ứng với mức tăng của cơ sở tính thuế.

+ Mức thuế lũy thoái chỉ mức thuế phải nộp giảm dần theo mức độ tăng của cơ sở tính thuế, cách tính thuế theo hướng này cũng xây dựng biểu thuế tương tự như tính theo mức thuế lũy tiến.

4. Xử lý mối quan hệ giữa các sắc thuế gián thu

Xét về bản chất, các sắc thuế gián thu được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ do người tiêu dùng chịu. Tuy nhiên, mỗi loại thuế đều có sứ mệnh riêng biệt mà không thể tập hợp trong một sắc thuế thống nhất. Thuế GTGT là loại thuế có diện thu rộng, mức thuế có tính chất tương đối bình quân, thuế đánh ở nhiều khâu trong quá trình luân chuyển hàng hóa, dịch vụ nên nhiệm vụ của nó là tạo nguồn thu thường xuyên và ổn định cho ngân sách. Thuế TTĐB là loại thuế chỉ đánh một lần duy nhất ở một khâu ( sản xuất hoặc nhập khẩu) với thuế suất cao, chỉ đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ nhất định nên chức năng chủ yếu của nó là hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết thu nhập. Thuế XK, thuế NK có vai trò quan trọng trong việc tạo mặt bằng giá giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa, từ đó tạo hàng rào thuế quan hợp lý nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, hướng dẫn và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách. Thuế BVMT là loại thuế đánh vào những hàng hóa, dịch vụ hoặc các hoạt động có ảnh hưởng xấu tới môi trường khi sản xuất và tiêu dùng nhằm gián tiếp giảm mức độ ô nhiễm môi trường bằng cách hạn chế sử dụng các sản phẩm như phân bón, thuốc trừ sâu, túi nilon không tiêu, vỏ đồ uống không tái sử dụng…

Chính vì vậy, với các chức năng và nhiệm vụ riêng nên chúng không thể thay thế lẫn nhau. Thuế GTGT nên tồn tại độc lập so với thuế NK, thuế TTĐB và thuế BVMT nhằm đảm bảo tính liên hoàn của cơ chế khấu trừ giữa các khâu chịu thuế GTGT, vì vậy hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB vẫn chịu thuế GTGT ở bất cứ khâu nào. Nếu chúng không được thiết kế tồn tại song hành thì cơ chế liên hoàn của thuế GTGT sẽ bị đứt đoạn và sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Tương tự như vậy, thuế TTĐB cần phải được tồn tại độc lập và không nên gộp vào thuế nhập khẩu. Sự tồn tại độc lập này giúp cho việc hoạch định chính sách được rõ ràng, minh bạch, vừa đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vừa tạo điều kiện để thực hiện chính sách bình đẳng giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa.

Tuy tồn tại độc lập, nhưng các loại thuế nói trên lại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung lẫn nhau. Thuế NK là một trong những yếu tố hình thành căn cứ tính thuế GTGT hoặc thuế TTĐB. Thuế TTĐB và thuế BVMT có tác dụng hướng dẫn tiêu dùng và điều tiết thu nhập mạnh nên có tác dụng bổ sung, khắc phục tính lũy thoái của thuế GTGT, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thuế GTGT cùng với thuế TTĐB là nguồn thu chủ yếu bù đắp sự suy giảm của thuế nhập khẩu theo xu hướng tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế. Cơ sở tính thuế và quản lý thu của mỗi loại thuế nói trên đều là những căn cứ để xác định hoặc giám sát, kiểm tra cơ sở tính thuế và quản lý thu các loại thuế còn lại.

Tóm lại, việc thiết kế một hệ thống thuế gián thu với các sắc thuế như trên giúp cho việc tránh đánh thuế chồng chéo hay bỏ sót đối tượng, Trong thực tế, với cùng một cơ sở tính thuế, các sắc thuế gián thu còn có khả năng hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau cùng thực hiện mục tiêu điều tiết chung của nhóm thuế này. Như vậy, có thể nói rằng tính hệ thống là đặc tính nội tại của các loại thuế gián thu. Chúng phải được tôn trọng một cách khách quan cả về mặt nội dung kinh tế và các thủ pháp kỹ thuật khi xây dựng chính sách. Có như vậy, thuế gián thu mới đảm bảo là một hệ thống hoàn chỉnh và vận hành một cách hiệu quả.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM