Trang chủKinh tếChính sách thuế gián thu: nguyên tắc lập và yếu tố tác động
Chính sách thuế là chính sách của Nhà nước về sử dụng các công cụ thuế bao gồm hệ thống các quan điểm, mục tiêu, chủ trương và giải pháp về thuế của Nhà nước phù hợp với đặc điểm của đất nước trong từng thời kỳ nhằm bồi dưỡng, khai thác, huy động và sử dụng các nguồn tài chính đa dạng phục vụ có hiệu quả cho việc thực hiện các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ tương ứng.
Ở đây, nội hàm của chính sách thuế là chính sách về sử dụng các công cụ thuế, là hệ thống các quan điểm, mục tiêu, chủ trương của Nhà nước về sử dụng các công cụ thuế và bao gồm cả các giải pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Bản chất của chính sách thuế đó là chính sách sử dụng các công cụ thuế của Nhà nước để phát triển, khai thác, động viên và sử dụng nguồn tài chính một cách có hiệu quả nhất định, hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Chính sách thuế có phạm vi rất rộng, bao gồm toàn bộ việc sử dụng các luật thuế như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK,…Nói cách khách, mỗi chính sách về sử dụng từng loại thuế khác nhau là một bộ phận hợp thành của chính sách thuế.
Các luật thuế là các công cụ được sử dụng để thu hút, tập trung các nguồn tài chính, để tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ như: thuế GTGT, thuế XK, NK… Đây là một bộ phận hợp thành của hệ thống công cụ quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Số lượng và chủng loại các luật thuế xuất hiện và tồn tại tuỳ thuộc vào sự xuất hiện và tồn tại của các quỹ tiền tệ bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của đời sống kinh tế xã hội.
Chính sách thuế là hệ thống các quan điểm, đường lối, phương châm của Nhà nước thông qua sử dụng các công cụ thuế nhằm phục vụ những mục tiêu nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Như vậy, chính sách thuế được hiểu là những các quan điểm, đường lối của Nhà nước liên quan đến sử dụng công cụ thuế trong hệ thống các chính sách của mình. Hệ thống quan điểm, đường lối đó thể hiện ở việc nhìn nhận vai trò của thuế, mục tiêu sử dụng công cụ thuế, phạm vi tác động, tỷ lệ điều tiết, định hướng trong dài hạn… nhằm làm cho công cụ thuế phát huy tốt nhất các vai trò của nó theo chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chính sách thuế gián thu là một bộ phận cấu thành của chính sách thuế, vì vậy chính sách thuế gián thu được hiểu một cách khái quát: “Chính sách thuế gián thu là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm điều tiết phần thu nhập dành cho tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông qua những quy định cụ thể về các sắc thuế gián thu ”.
Chính sách thuế gián thu là một bộ phận quan trọng của chính sách thuế, chịu sự chi phối bởi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và tình hình phát triển kinh tế của đất nước. Trong các thời kỳ khác nhau, chính sách thuế gián thu có các biểu hiện cụ thể khác nhau, nhưng thông thường phản ánh những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, mục tiêu của chính sách thuế gián thu: xác định mức độ điều tiết qua các sắc thuế gián thu, những tác động kinh tế - xã hội của thuế gián thu như thế nào và tại sao lại điều tiết ở mức độ đó cũng như có tác động kinh tế - xã hội đó.
Hai là, phạm vi tác động của chính sách thuế gián thu: chính sách thuế gián thu sẽ tác động đến những tổ chức, cá nhân nào trong xã hội. Việc xác định rõ phạm vi tác động của chính sách thuế gián thu cho phép tập trung vào những mục tiêu quan trọng của chính sách, đồng thời, tránh được những hậu quả không mong muốn của chính sách.
Ba là, thời gian hiệu lực của chính sách: xác định rõ chính sách thuế gián thu được áp dụng trong thời kỳ nào, thời điểm bắt đầu và kết thúc của chính sách.
Bốn là, trách nhiệm thực hiện chính sách thuế gián thu: chỉ rõ tổ chức, cá nhân nào phải có trách nhiệm trong thực hiện chính sách, như: cụ thể hóa chính sách thuế gián thu thành pháp luật thuế, tổ chức thực hiện pháp luật thuế, chấp hành pháp luật thuế…
Năm là, cách thức động viên nguồn thu cho NSNN qua các sắc thuế gián thu của từng thời kỳ.
Sáu là, các định hướng phát triển hệ thống các sắc thuế thuế gián thu: trong các thời kỳ khác nhau thì định hướng phát triển hệ thống thuế gián thu cũng khác nhau, điều này có chi phối đến việc hoạch định các chính sách thuế gián thu cụ thể.
Ngoài ra, chính sách thuế gián thu có thể bao gồm các nội dung khác như: phương châm thực hiện chính sách thuế gián thu, bối cảnh kinh tế - xã hội ra đời chính sách với các yếu tố ảnh hưởng cụ thể và các định nghĩa về các thuật ngữ sử dụng trong chính sách thuế gián thu.
Thuế gián thu là một loại thuế gồm nhiều sắc thuế như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK,NK, thuế BVMT. Mỗi sắc thuế có đối tượng điều chỉnh, nội dung điều chỉnh khác nhau và được quy định cụ thể bằng các văn bản pháp luật. Như vậy, các sắc thuế chính là các biểu hiện cụ thể của chính sách thuế dưới hình thức pháp luật thuế. Nếu chính sách thuế là định hướng để đạt được mục tiêu trong việc sử dụng thuế thì pháp luật thuế chỉ rõ các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải làm gì và không được làm gì trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định để thực hiện chính sách đó. Chính vì vậy khi thiết lập các chính sách thuế thuộc loại thuế gián thu cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản. Cụ thể:
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Hiện nay, thuế GTGT được nhiều nước trên thế giới áp dụng xuất phát từ những ưu điểm của loại thuế này. Đối với các nước khác nhau thì việc xây dựng các quy định về thuế GTGT là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Nhưng có điểm chung là các nước khi thiết lập thuế GTGT đều tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Thuế GTGT chỉ là một khoản cộng thêm vào giá bán không phải là một yếu tố chi phí, số thu từ thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi sự phân chia các chu trình kinh tế, nên mục tiêu sử dụng thuế GTGT chủ yếu nhằm động viên một phần thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng trong xã hội vào ngân sách nhà nước. Do đó, có thể coi thuế GTGT có mục tiêu chủ yếu là tạo nguồn thu cho ngân sách. Muốn đạt mục tiêu này thì đối tượng chịu thuế GTGT phải bao quát hầu hết các hàng hóa, dịch vụ. Điều này cũng có nghĩa là, việc quy định đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ nên giới hạn trong một số hàng hóa, dịch vụ nhất định mà những loại hàng hóa này có số thu không lớn, là sản phẩm của những ngành rất khó khăn, việc tổ chức quản lý, thu nộp không dễ dàng…Hơn nữa, việc đưa nhiều hàng hóa, dịch vụ vào diện đánh thuế GTGT là nhằm đảm bảo công bằng nghĩa vụ về thuế giữa các đối tượng sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ khác nhau.
Đây có thể coi là một trong những nguyên tắc cơ bản khi thiết lập thuế GTGT, nó phản ánh linh hồn của sắc thuế này- không đánh trùng thuế, thuế đánh trên nhiều giai đoạn nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm. Nguyên tắc này được thể hiện trong việc xác định giá tính thuế và lựa chọn phương pháp tính thuế. Giá tính thuế phải là giá chưa có thuế giá trị gia tăng. Mọi giao dịch vì lý do khách quan chỉ thể hiện giá đã có thuế GTGT trên hóa đơn, chứng từ ( các loại chứng từ đặc thù như Tem thư, vé máy bay…) phải được quy đổi về giá chưa có thuế GTGT để tính thuế. Việc lựa chọn phương pháp tính thuế phải đảm bảo xác định được giá trị gia tăng của mỗi giai đoạn.
Trong hai phương pháp tính thuế GTGT thông dụng, phương pháp khấu trừ có nhiều ưu điểm và được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên phương pháp khấu trừ đòi hỏi ở mỗi khâu tính thuế phải có đầy đủ hóa đơn, chứng từ để xác định số thuế đã nộp ở các khâu trước làm cơ sở khấu trừ thuế đầu vào. Điều này có nghĩa là, khi thiết kế thuế GTGT phải đảm bảo tính liên hoàn và cơ chế tự kiểm soát giữa các khâu của quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Tức là, phải đảm bảo để khâu trước là cơ sở khấu trừ của khâu sau và việc khấu trừ ở khâu sau là cơ sở kiểm soát khâu trước. Việc quy định thuế tiêu thụ đặc biệt không chịu thuế GTGT như trước đây khiến cho khâu tính thuế GTGT sau khâu sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không xác định được chính xác thuế GTGT đã nộp ở khâu trước. Vì vậy, không nên làm đứt đoạn cơ chế liên hoàn này.
Số lượng các mức thuế suất là một vấn đề được xem xét kỹ lưỡng khi hoạch định thuế GTGT. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất có thể góp phần đảm bảo công bằng trong việc điều tiết thu nhập. Tuy nhiên, việc có nhiều mức thuế suất thuế GTGT trước hết làm cho việc hoạch định chính sách thêm phức tạp vì phải thực hiện xác định cơ cấu thuế suất và phân loại các nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc các mức thuế suất khác nhau, trong nhiều trường hợp việc lựa chọn cơ cấu thuế suất thường mang tính tùy tiện và có thể nảy sinh tranh cãi về công bằng thuế. Hơn nữa, nhiều mức thuế suất dẫn đến chi phí hành chính và chi phí chấp hành luật cao. Trên thực tế, việc xác định số thuế phải nộp không hoàn toàn đơn giản do việc chọn các tiêu thức để phân định các hàng hóa, dịch vụ theo từng mức thuế suất rất khó bởi ranh giới giữa những phân định này không phải lúc nào cũng rõ ràng mà thường mang tính tương đối. Do vậy, khả năng sai sót và không chấp hành đúng các quy định về thuế suất và thường hay xảy ra, các đối tượng có nhiều cơ hội trốn, tránh thuế. Khối lượng công việc của cơ quan thuế cũng tăng lên do phải xử lý các công việc liên quan đến hoàn thuế nhiều lúc bất hợp lý gây ra bởi cơ chế nhiều thuế suất và công tác thanh tra, kiểm tra thuế, phát hiện các hiện tượng gian lận đòi hỏi tăng lên rất nhiều. Đặc biệt, việc áp dụng mức thuế suất có thể “ bóp méo” giá cả tương đối giữa các hàng hóa chịu thuế suất khác nhau, dẫn đến làm “bóp méo” hành vi tiêu dùng. Ngoài ra với việc áp dụng nhiều mức thuế suất khác nhau dẫn đến khối lượng hoàn thuế và truy thu thuế cũng tăng lên.
Việc hạn chế tối đa số lượng thuế suất thuế GTGT, mà lý tưởng nhất là áp dụng cơ chế một mức thuế suất (không kể mức thuế suất đặc biệt 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu) khắc phục nhiều điểm bất lợi của cơ chế nhiều thuế suất. Nó đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT và do đó sẽ không bóp méo hành vi và quyết định tiêu dùng. Cơ chế một thuế suất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, thu thuế, góp phần làm giảm chi phí hành chính. Việc hạn chế số lượng mức thuế suất dẫn đến không đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, song mục tiêu chính của thuế GTGT không phải là điều tiết thu nhập.
Hầu hết các quốc gia khi thiết kế thuế GTGT đều sử dụng nguyên tắc điểm đến khi đánh thuế GTGT. Theo đó, quyền đánh thuế thuộc về quốc gia nơi hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng, không phân biệt nó được sản xuất ở đâu. Điều này có nghĩa là, cần phải hoàn thuế GTGT cho hàng xuất khẩu, kể cả hàng không chịu thuế GTGT xuất khẩu và hàng hóa, dịch vụ bán vào khu chế xuất. Muốn vậy, cần đưa hàng hóa, dịch vụ này vào diện áp dụng thuế suất 0% để khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở các khâu trước. Đồng thời, không phân biệt hàng hóa nhập khẩu hay hàng hóa sản xuất trong nước khi xác định đối tượng chịu thuế và phương pháp tính thuế, đã là hàng hóa được tiêu dùng ở lãnh thổ Việt Nam thì phải là đối tượng chịu thuế GTGT của Việt Nam, bất kể hàng hóa, dịch vụ đó được sản xuất ở trong nước hay NK.
Thuế TTĐB là sắc thuế đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước quy định. Tính chất đặc biệt hay không đặc biệt của hàng hóa, dịch vụ ở một quốc gia phụ thuộc vào phong tục, tập quán, lối sống văn hóa và mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó. Nhìn chung các hàng hóa, dịch vụ được lựa chọn để thu thuế TTĐB có các tính chất sau:
- Việc sản xuất, tiêu dùng các loại hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự cần thiết đối với đời sống xã hội nên thường chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.
- Lượng cầu hàng hóa, dịch vụ này thường biến động theo nhu cầu nhưng ít biến động theo mức giá cả.
- Các loại hàng hóa này cần hạn chế tiêu dùng do không có lợi đối với nền kinh tế - xã hội nói chung hoặc có hại cho sức khỏe, môi trường hay gây lãng phí cho xã hội.
Khi thiết kế chính sách thuế TTĐB cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Phạm vi áp dụng thuế TTĐB chỉ được giới hạn đối với các nhóm hàng hóa và dịch vụ cao cấp, xa xỉ ít có lợi đối với nền kinh tế hoặc có tác hại đối với sức khỏe và môi trường….Đối với những loại hàng hóa mà thường gây sự phức tạp trong quá trình áp dụng thì nên đưa ra khỏi phạm vi điều chỉnh của thuế TTĐB. Điều quan trọng là phải xác định rõ ranh giới giữa hàng hó, dịch vụ đặc biệt và hàng hóa, dịch vụ thông thường. Trong thực tiễn, việc xác định ranh giới này không dễ dàng do tính chất “đặc biệt” của các loại hàng hóa, dịch vụ thường biến động theo sự thay đổi nhu cầu cuộc sống của các tầng lớp dân cư qua từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy, việc xác định ranh giới đó phải căn cứ vào mối tương quan giữa nhu cầu tiêu dùng phổ biến hay nhu cầu có tính chất cá biệt, nhu cầu Nhà nước hay nhu cầu tiêu dùng dân cư.
Thuế TTĐB được áp dụng một cách bình đẳng đối với hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Không thể đánh thuế TTĐB đối với một mặt hàng nhập khẩu nào đó mà không đánh thuế TTĐB đối với mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước vì điều này vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia- một nguyên tắc thiết yếu đối với các thành viên WTO. Mặt khác, cũng không thể đánh thuế TTĐB vào mặt hàng nào đó sản xuất trong nước mà không đánh vào mặt hàng nhập khẩu cùng loại vì khi đó, một sự thay đổi bất kỳ của thuế suất thuế TTĐB đều dẫn đến sự thay đổi thuế suất thuế nhập khẩu để đảm bảo duy trì được một mức độ ổn định đối với sản xuất trong nước và ngược lại.
Thuế TTĐB được đánh với mức cao hơn để đảm bảo mục tiêu điều tiết cao vào những người có thu nhập cao khi tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ cao cấp và hạn chế tiêu dùng một số loại hàng hóa nhất định. Tuy nhiên, nếu đánh thuế TTĐB đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó cao thì số thu từ thuế sẽ bắt đầu giảm đi vì lượng tiêu thụ giảm. Vì vậy, cần xác định tầm quan trọng tương đối giữa mục tiêu tăng thu hoặc hạn chế tiêu dùng để xác lập mức thuế suất thích hợp, nhất là trong điều kiện số thu từ thuế nhập khẩu có xu hướng giảm do quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác, thuế suất thuế TTĐB nên chi tiết theo từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Việc xây dựng các mức thuế suất thuế TTĐB khác nhau trong phạm vi các nhóm hàng hóa dựa vào giá cả và chất lượng của hàng hóa, trong đó thuế suất cao được áp dụng đối với các loại hàng hóa có chất lượng và giá cả cao hơn trên cơ sở người giàu sẽ tiêu dùng nhiều hơn.
Thuế TTĐB có mối quan hệ chặt chẽ với các sắc thuế gián thu khác như thuế GTGT hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Mối quan hệ này được thể hiện trong các quy định về giá tính thuế (gồm cả thuế nhập khẩu), về thuế suất (đối với những mặt hàng đồng thời chịu cả thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế GTGT). Mối quan hệ này cũng phải được tôn trọng một cách khách quan cả về nội dung kinh tế cũng như các thủ pháp kỹ thuật khi thiết kế và vận hành. Nếu đặc tính khách quan này không được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khi thiết lập chính sách thuế TTĐB nói riêng và các sắc thuế gián thu nói chung thì rất có thể hệ thống các sắc thuế gián thu sẽ rơi vào tình trạng chồng chéo, không bao quát hết đối tượng hoặc triệt tiêu tác dụng của nhau.
Thuế XK, thuế NK là sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế. Thuế XK, thuế NK là công cụ quan trọng để Nhà nước kiểm soát hoạt động ngoại thương, là công cụ bảo hộ sản xuất trong nước. Không những vậy, thuế XK, thuế NK là nguồn thu quan trọng của NSNN. Tuy nhiên, thuế XK, thuế NK là loại thuế chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế… Từ đó các yếu tố quốc tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách thuế Xk, thuế NK của từng quốc gia. Để đạt được những mục tiêu đề ra, đòi hỏi chính sách thuế XK, thuế NK phải có tính linh hoạt cao, có sự thay đổi phù hợp tùy theo sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế, ngoài ra chính sách thuế XK, thuế NK còn phải đảm bảo phù hợp với các Hiệp định, các cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia đã ký kết, tham gia.
Khi thiết lập chính sách thuế XK, thuế NK cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Là công cụ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương nhưng cũng phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa trong quan hệ thương mại quốc tế theo khuôn khổ quy định của pháp luật thuế XK, thuế NK, chỉ điều chỉnh vào hàng hóa thực sự xuất khẩu, nhập khẩu. Hàng hóa xuất khẩu thực sự là những hàng hóa được sản xuất trong nước nhưng tiêu thụ ở nước ngoài. Hàng hóa nhập khẩu thực sự là hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài và tiêu dùng ở thị trường nội địa. Vì vậy, các nước thường không đánh thuế xuất khẩu, nhập khẩu vào hàng hóa quá cảnh, mượn đường qua cửa khẩu, biên giới quốc gia, hàng hóa đưa từ nước ngoài vào khu chế xuất, từ khu chế xuất ra nước ngoài, hàng hóa từ nước ngoài vào kho bảo thuế, hoặc quy định các trường hợp miễn thuế, hoàn thuế XK, thuế NK cho hàng hóa không thực sự xuất khẩu hoặc nhập khẩu như hàng tạm nhập – tái xuất, hàng tạm xuất- tái nhập.
Thuế XK, thuế NK điều chỉnh vào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia. Để thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa trong quan hệ thương mại quốc tế, các nước có thể đặt ra các quy tắc nhất định đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và việc đánh thuế vào những hàng hóa này. Đặc biệt, trong điều kiện tự do hóa thương mại như hiện nay, các quốc gia có cùng chung lợi ích có thế ký kết với nhau các Hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương thực hiện ưu đãi đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Các quốc gia khi tham gia ký kết các Hiệp định phải từ bỏ tính chủ quyền trong đánh thuế XK, thuế XK mà phải tuân thủ các Hiệp định thuế đã ký kết. Vì vậy, các quốc gia khi thiết lập chính sách thuế XK, thuế NK phải đảm bảo sự phù hợp giữa chính sách thuế XK, thuế NK với các thông lệ thương mại và các cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia đã ký kết, tham gia. Theo đó, với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ khu vực thị trường phổ thông (không có cam kết) thì áp dụng mức thuế suất phổ thông, đối với khu vực thị trường có cam kết đối xử tối huệ quốc thì áp dụng mức thuế suất ưu đãi, đối với thị trường có cam kết ưu đãi đặc biệt thì áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt.
Một trong những mục tiêu khi xây dựng chính sách thuế XK, thuế NK mà các quốc gia hướng tới là bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia mà mục tiêu trên có thể nhấn mạnh hoặc giảm bớt. Căn cứ vào lợi thế so sánh thương mại của các mặt hàng sản xuất trong nước, chính sách thuế XK, thuế NK sẽ xây dựng biểu thuế phù hợp. Thông thường mặt hàng có lợi thế so sánh tương đối thấp, tính cạnh tranh kém, Nhà nước sẽ xây dựng biểu thuế NK cao nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước và ngược lại. Biểu thuế NK phải chi tiết, cụ thể với từng nhóm mặt hàng, cũng như tính năng và công dụng của nó. Sự cụ thể, chi tiết của biểu thuế một mặt góp phần tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời nó cũng tạo ra những kẽ hở để các đối tượng lợi dụng tránh thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý. Vấn đề đặt ra là làm sao dung hòa được giữa mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước và mục tiêu đơn giản hóa, tiết kiệm chi phí quản lý. Bên cạnh đó, chính sách thuế XK, thuế NK phải có tính linh hoạt cao. Tùy theo sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế, thuế suất thuế XK, thuế NK thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong nước và thế giới trong từng thời kỳ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia cần tuân thủ các quy định chung liên quan đến hoạt động ngoại thương. Trong đó, đánh thuế bao nhiêu vào hàng hóa nào có liên quan chặt chẽ đến việc phân loại hàng hóa và xác định trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Khi thiết lập thuế XK, thuế NK cần tuân thủ nguyên tắc này để đảm bảo sự hài hòa trong chính sách giữa các quốc gia.
Thuế BVMT là loại thuế thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế BVMT điều tiết vào hành vi tiêu dùng nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà sản xuất và người tiêu dùng trong vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó định hướng hành vi xã hội theo hướng gìn giữ hiệu quả các thành phần môi trường cũng như sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khi đánh vào những người sản xuất các sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm cao thì chi phí về thuế sẽ được tính vào trong giá cả và người tiêu dùng phải chịu. Đây là sắc thuế gián thu một giai đoạn, không đánh trùng và giảm thiểu chi phí hành thu, đảm bảo tính hiệu quả và tính khả thi của sắc thuế này. Thuế BVMT là sắc thuế được người dân ủng hộ hơn so với các sắc thuế khác. Không chỉ vì mục tiêu của nó là bảo vệ môi trường mà còn vì thu thuế được dựa vào “hành vi xấu” là việc gây ô nhiễm mội trường, chứ không phải dựa vào “hành vi tốt” như sản xuất, kinh doanh hoặc tạo ra thu nhập.
Khi thiết lập chính sách thuế BVMT cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Phạm vi áp dụng thuế BVMT nên chỉ giới hạn đối với các hàng hóa, dịch vụ hoặc hoạt động là các tác nhân có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường trong quá trình sản xuất và tiêu dùng như: phân bón, thuốc trừ sâu, túi nilon không tiêu, vỏ đồ uống không tái sử dụng…Việc áp dụng sắc thuế này là giải pháp gián tiếp nhằm giảm mức độ ô nhiễm bằng cách hạn chế sử dụng các sản phẩm này.
Mục tiêu của việc đánh thuế BVMT là nhằm thay đổi hành vi của con người. Khuyến khích con người sản xuất và tiêu dùng những sản phẩm, hàng hóa thân thiện với môi trường, hạn chế sử dụng những sản phẩm gây hại cho môi trường. Tuy nhiên, mỗi sản phẩm, hàng hóa trong quá trình sản xuất và tiêu dùng lại có mức độ ảnh hưởng đến môi trường khác nhau.Vì vậy, khi thiết kế thuế suất thuế BVMT nên thiết kế theo mức độ gây ô nhiễm của các sản phẩm hàng hóa trong quá trình sản xuất và tiêu dùng sao cho phù hợp.
Trên thực tế, tùy vào mỗi đối tượng tính thuế khác nhau thì người ta sử dụng các phương pháp tính thuế môi trường khác nhau. Có 5 phương pháp tính thuế môi trường phổ biến nhất: tính thuế theo nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền; tính thuế theo khối lượng tiêu thụ các nguyên, nhiên liệu đầu vào; tính thuế dựa vào lợi nhuận của doanh nghiệp, tính thuế dựa vào khối lượng sản phẩm được sản xuất ra và tính thuế theo mức độ gây ô nhiễm môi trường.
Theo nguyên tắc này, người gây ô nhiễm cho môi trường, cho dù là người sản xuất hay là người tiêu dùng, họ đều phải chịu trách nhiệm về các chi phí phải sử dụng để hoàn trả lại những tổn thất về môi trường mà chính họ là nguyên nhân gây ra; nói cụ thể hơn là người gây ô nhiễm môi trường phải nộp một số tiền thuế tương ứng với mức ô nhiễm môi trường mà họ gây ra.
Các loại nguyên, nhiên vật liệu được sử dụng cho quá trình sản xuất, nếu chúng là các nguyên nhân phát sinh ô nhiễm môi trường thì phải chịu một mức thuế tương đương với mức ô nhiễm môi trường mà chúng gây ra. Phương pháp tính thuế này có rất nhiều ưu điểm; để hạn chế tối đa, thậm chí tránh được mức thuế ô nhiễm môi trường phải nộp, các doanh nghiệp phải tích cực tìm kiếm và sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu thích hợp với các yêu cầu bảo vệ môi trường; thông qua đó khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường sử dụng các nguyên nhiên vật liệu sạch, vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất, vừa đảm bảo an toàn cho môi trường.
Lợi nhuận trước thuế của một doanh nghiệp được tính bằng hiệu số giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch. Do đó, việc tính thuế này có vẻ đơn giản và dễ thực hiện, nó phản ánh được một cách trực tiếp các chi phí về môi trường mà doanh nghiệp phải nộp. Cơ sở để xác định tỷ lệ thuế mà doanh nghiệp phải nộp phụ thuộc vào mức độ gây ô nhiễm môi trường mà doanh nghiệp gây ra.
Cách tính thuế này phải tùy theo từng loại hình sản xuất kinh doanh để tính: dựa vào khối lượng sản phẩm được sản xuất ra hoặc dựa vào doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch. Tuy nhiên, phương pháp này có một số nhược điểm là: khó có thể xác định được tỷ lệ thu thuế hợp lý và đảm bảo tính công bằng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh; nó có thể gây bất lợi cho các cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ mới, hoặc bất lợi cho các doanh nghiệp đã triển khai thực hiện các biện pháp xử lý môi trường.
Việc xác định mức thuế ô nhiễm phải dựa vào quy mô, tính chất hoạt động và mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng doanh nghiệp cụ thể. Khối lượng chất thải của một doanh nghiệp càng lớn, hàm lượng chất độc hại càng cao, tính chất các chất độc hại càng nguy hiểm, thì mức thuế ô nhiễm môi trường doanh nghiệp phải nộp càng nhiều. Như vậy, để giảm thuế doanh nghiệp bắt buộc phải tìm cách đổi mới công nghệ để hạn chế chất thải ra môi trường.
Chính sách thuế gián thu là một bộ phận của hệ thống chính sách của Nhà nước nói chung, do đó nó chịu sự chi phối của các chính sách chung nhất, các chính sách có liên quan cũng như điều kiện kinh tế, xã hội, đời sống, phong tục tập quán của nhân dân…Cụ thể, các yếu tố chủ yếu chi phối tới chính sách thuế gián thu trong một thời kỳ nhất định bao gồm:
Chính sách phát triển kinh tế xã hội là đối tượng phục vụ và điều chỉnh của chính sách thuế nói chung và chính sách thuế gián thu nói riêng. Các mục tiêu, yêu cầu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ là cơ sở cho việc định ra các chủ trương, giải pháp về thuế nhằm thực hiện các mục tiêu, yêu cầu, phương hướng đã được xác định của chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Do đó, việc hoạch định chính sách thuế gián thu phải dựa trên cơ sở chính sách phát triển kinh tế - xã hội mới đảm bảo cho chính sách thuế gián thu đúng hướng và phục vụ có kết quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhu cầu về tài chính của Nhà nước càng lớn thì áp lực tăng thuế càng cao. Khi đó, chính sách thuế gián thu phải được xây dựng và ban hành chú trọng nhiều hơn đến việc quản lý, bao quát và khai thác được các nguồn thu trong nền kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt nhất nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuế chính là một bộ phận thu nhập mà các chủ thể bắt buộc chuyển giao cho Nhà nước, cho nên xu hướng phát triển kinh tế trong nước diễn ra thuận lợi sẽ có tác động tích cực đến thuế và ngược lại. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng có ảnh hưởng rất lớn đến chính sách thuế. Hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng thì đòi hỏi các nước phải điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với các nguyên tắc của hội nhập. Do vậy, khi hoạch định chính sách thuế gián thu cần tính đến các nhân tố này, điều đó giúp cho chính sách thuế gián thu tăng thêm sức sống và hiệu quả.
Việc xây dựng, ban hành một chính sách thuế mới bao giờ cũng phải dựa trên nền tảng sẵn có của chính sách thuế hiện tại. Chính sự hoàn thiện hay còn khiếm khuyết của chính sách thuế hiện tại cùng với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội và quan điểm điều tiết thông qua thuế của Nhà nước quyết định đến những nội dung cơ bản của chính sách thuế gián thu cần được ban hành. Do đó, khi xây dựng, ban hành một chính sách thuế gián thu mới, việc không thể bỏ qua mà phải thực hiện tổng kết, đánh giá về chính sách thuế gián thu thời kỳ trước cho nhận xét về những mặt hợp lý và chưa hợp lý của chính sách thuế gián thu, những mặt đã đạt được và những mặt chưa đạt được so với mục tiêu, yêu cầu đã đặt ra. Dựa trên cơ sở đó có thể vạch ra những biện pháp để hoàn thiện chính sách thuế gián thu đúng hướng hơn, đạt kết quả cao hơn.
Do đó, để có được chính sách thuế thu phù hợp và phát huy được tác dụng tích cực đòi hỏi việc hoạch định chính sách thuế gián thu phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng đắn thực trạng chính sách thuế gián thu trong thời kỳ trước.
Thuế không chỉ được sử dụng để tập trung nguồn thu cho NSNN mà còn là một trong những công cụ quan trọng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Bởi vậy, việc xây dựng một hệ thống thuế hiệu quả nhằm giải quyết thỏa đáng cả hai yêu cầu trên luôn được quan tâm. Khi đánh giá một hệ thống thuế nói chung, một loại thuế nói riêng (trong đó có thuế gián thu), người ta thường đánh giá dựa trên các tiêu chí cơ bản: tính công bằng, tính hiệu quả, tính rõ ràng, minh bạch, linh hoạt, tính chắc chắn và tính phù hợp.
Tuy nhiên, trên góc độ đánh giá chính sách công nói chung, chính sách thuế và chính sách thuế gián thu nói riêng, các tiêu chí đánh giá thường được sử dụng là: tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính kinh tế và tính công bằng của chính sách.
Hiệu lực của chính sách công nói chung, chính sách thuế gián thu nói riêng là khái niệm phản ánh tác dụng đích thực của chính sách đó. Các yếu tố phản ánh tiêu chí hiệu lực của chính sách là mức độ đáp ứng các nguồn lực, phương tiện để triển khai được chính sách và nhận được sự đồng thuận, chấp hành của đối tượng thực hiện chính sách. Trong đó, tiêu chí quan trọng là đảm bảo tính răn đe, buộc các đối tượng liên quan phải tuân thủ, chấp hành.
Như vậy, tính hiệu lực của chính sách thuế gián thu đòi hỏi phải có sự tuân thủ, chấp hành đầy đủ các quy định, đảm bảo sự nghiêm minh của chính sách thuế này. Do đó, điều kiện cần và đủ để đo lường tính hiệu lực của chính sách thuế gián thu là những điều kiện kỹ thuật, nguồn lực, quy trình và đặc biệt là đảm bảo sự chấp hành của các đối tượng áp dụng (bao gồm cơ quan quản lý thuế, công chức thuế, người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách thuế) để đạt mục tiêu chính sách đề ra. Chính sách thuế gián thu được ban hành và thực thi với sự tuân thủ đầy đủ của các đối tượng áp dung sẽ đảm bảo được tính hiệu lực và được đánh giá là một chính sách tốt và ngược lại.
Tính hiệu quả của chính sách là độ lớn của kết quả thu được từ việc sử dụng nguồn lực cố định. Nói cách khác, tính hiệu quả của chính sách được khẳng định khi chính sách đó có khả năng làm cho các nguồn lực phát huy hiệu suất lớn nhất trong điều kiện có hạn.
Đối với chính sách thuế nói chung, chính sách thuế gián thu nói riêng, tính hiệu quả thể hiện ở các kết quả đạt được do việc thực thi chính sách pháp luật thuế mang lại. Trong đó, một số tiêu chí cơ bản là: số thu thuế từ các sắc thuế vào NSNN theo quy định trong các văn bản pháp luật thuế, hiệu quả can thiệp đối với nền kinh tế là lớn nhất như những tác động tích cực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội dưới tác động của việc thực thi chính sách, pháp luật thuế; chi phí hành chính và hiệu quả tổ chức quản lý thu thuế (thuế được thu nhiều nhất trên cơ sở chi phí hành chính thuế là thấp nhất)…
Một hệ thống thuế nói chung, một chính sách thuế nói riêng bao giờ cũng đặt ra mục tiêu mang lại nguồn thu lớn, ổn định cho NSNN. Do đó, tiêu chí về số thuế thu được từ các sắc thuế luôn được coi là tiêu chí quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của sắc thuế đó cũng như của cả hệ thống thuế. Để có được số thu từ thuế lớn, các quy định của chính sách pháp luật thuế phải đảm bảo bao quát đầy đủ, điều tiết hợp lý các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh; hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng thất thu, gian lận thuế, đồng thời đảm bảo nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu trong tương lai.
Hiệu quả can thiệp đối với nền kinh tế của chính sách thuế được xem xét trên 2 góc độ: giảm thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ nguồn lực xã hội vốn đã đạt được hiệu quả dưới tác động của lực lượng thị trường và tăng cường vai trò của thuế đối với việc phân bổ nguồn lực chưa đạt được hiệu quả.
Hiệu quả tổ chức thu thuế đòi hỏi nguồn thu từ thuế mang lại phải lớn và chi phí tuân thủ thuế phải ở mức thấp. Trong đó, để giảm bớt chi phí tuân thủ thuế đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn giản, dễ hiểu thì việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng, thuận lợi.
Tính khả thi được hiểu một cách chung nhất là khả năng có thể thực hiện được hay khả năng mang lại thành công của một vấn đề nào đó. Tính khả thi của chính sách thuế theo nghĩa hẹp là khả năng các quy định trong các văn bản pháp luật thuế có thực hiện được trong thực tế hay không. Còn theo nghĩa rộng, tính khả thi của chính sách thuế được xem xét trên các góc độc như các quy định trong các văn bản pháp luật thuế có hợp pháp, hợp lý không, có rõ ràng, minh bạch hay không, có khả năng thực hiện được hay không và có khả năng mang lại hiệu quả hay không…
Tính khả thi của chính sách thuế gián thu có thể xem xét dưới góc độ chung là tính hợp pháp, hợp lý của các quy định trong các văn bản pháp luật thuế, khả năng thực hiện trong thực tiễn các quy định đó ở góc độ người nộp thuế cũng như cơ quan quản lý thuế, khả năng mang lại hiệu quả mong muốn cũng như hiệu quả thực tế của chính sách pháp luật thuế đó.
Tính rõ ràng, minh bạch cũng được coi là một tiêu chí quan trọng được sử dụng để đánh giá tính khả thi của chính sách thuế nói chung, chính sách thuế gián thu nói riêng. Sự rõ ràng, minh bạch thể hiện ở việc các quy định trong chính sách pháp luật thuế rõ ràng, đầy đủ, chi tiết, dễ hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm tra.Các thủ tục liên quan đến việc thực thi chính sách thuế và tuân thủ chính sách thuế phải đầy đủ, rõ ràng, thuận lợi, tạo điều kiện tối đa cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM